Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) đã tuyên bố về hợp tác thúc đẩy đầu tư vào các giải pháp dựa vào thiên nhiên (NbS).
Theo đó, tuyên bố này nhằm mục đích giải quyết những vấn đề về biến đổi khí hậu, bảo vệ và phục hồi đa dạng sinh học, đồng thời mang lại lợi ích cho các cộng đồng địa phương tại Trung Trường Sơn - một trong những khu vực có rừng nguyên sinh liền kề lớn nhất châu Á.
Đây là một phần hoạt động của nền tảng Khởi tạo các Giải pháp dựa vào thiên nhiên (NbS-OP). Nền tảng này là một sáng kiến mới của Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) nhằm tìm kiếm các giải pháp NbS có chất lượng và tính toàn vẹn cao, có tác động trên diện rộng lên con người, khí hậu và thiên nhiên tại các cảnh quan rừng nhiệt đới.
Các đối tác chủ chốt của NbS-OP trên toàn cầu hiện nay bao gồm các công ty lớn của Mỹ như HP Inc, Apple và International Paper. Tại Việt Nam, WWF đang phối hợp với Bộ NN-PTNT thực hiện các dự án bảo tồn đa dạng sinh học ở quy mô lớn tại Trung Trường Sơn nhằm bảo vệ, phục hồi và tăng cường quản lý rừng. Các dự án này do Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ tài trợ và WWF là đối tác thực hiện.
Thúc đẩy đầu tư các giải pháp dựa vào thiên nhiên sẽ giúp bảo vệ và phục hồi đa dạng sinh học tại khu vực Trung Trường Sơn. Ảnh: Thành Thế Vinh/WWF.
Phát biểu về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, ông Lê Minh Hoan cho biết, “Chúng tôi đánh giá cao những đóng góp lâu dài của WWF và nỗ lực bảo tồn các cảnh quan rừng quan trọng của Việt Nam. Trong những năm tới, chúng tôi mong muốn hợp tác với WWF để bảo vệ sinh cảnh quý báu cho Trung Trường Sơn, thông qua các giải pháp dựa vào thiên nhiên có chất lượng và bền vững, mang lại lợi ích cho cả con người, thiên nhiên và khí hậu Việt Nam và trong khu vực”.
Bên cạnh đó, cảnh quan Trung Trường Sơn là một bể chứa các bon tự nhiên và nổi tiếng với độ đa dạng sinh học giàu có và độc đáo. Độ che phủ rừng trong khu vực là từ 47% tới 68%, với hơn 2,3 triệu ha rừng tự nhiên. Chính vì vậy, đây là ngôi nhà của nhiều loài động vật đặc hữu và quý hiếm, bao gồm sao la, mang lớn, mang Trường Sơn... Dân số của miền Trung Việt Nam là 18,5 triệu người và người dân nơi đây đang sống dựa vào tài nguyên thiên nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp.
Tuy nhiên, cảnh quan này đang mất đa dạng sinh học nghiêm trọng, đối mặt với hiện tượng “rừng lặng” do sinh cảnh bị chia cắt và suy thoái. Biến đổi khí hậu và tác động của các hoạt động con người là những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với hệ sinh thái nơi đây.
Những hoạt động này bao gồm săn bắt và khai thác gỗ bất hợp pháp, chuyển đổi rừng, và các hoạt động sinh kế khác. Phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng làm trầm trọng thêm tình trạng sinh cảnh chia cắt và tác động của biến đổi khí hậu.
Giám đốc Điều hành WWF-Việt Nam, ông Văn Ngọc Thịnh chia sẻ: “Bảo tồn là một nỗ lực lâu dài và có thể mất từ 20 – 30 năm mới mang lại kết quả. Đây là lý do tại sao chúng ta cần một nguồn lực tài chính lâu dài. Nền tảng NbS-OP thành lập là để đạt được mục tiêu trên bằng cách huy động đầu tư từ các khối công và tư vào các giải pháp dựa vào thiên nhiên hiệu quả, có phạm vi tác động trên toàn bộ cảnh quan”.
Được biết, từ nhiều năm trở lại đây, WWF đã phát triển các chương trình phục hồi để giải quyết các vấn đề này, tạo các hành lang xanh để kết nối các khu rừng bị phân mảnh, vận động và hỗ trợ việc thành lập các Khu Bảo tồn Sao la tại Thừa Thiên Huế và Quảng Nam. Các công nghệ mới như SMART, phân tích e-DNA và GIS, đã được áp dụng để quản lý và giám sát quần thể các loài hoang dã trong các khu bảo tồn. Gần đây, WWF và các đối tác đã hỗ trợ triển khai Chương trình Tái hoang dã tại Vườn Quốc gia Bạch Mã. Ngoài ra, WWF làm việc trực tiếp với các cộng đồng và doanh nghiệp địa phương để nâng cao sinh kế và mang lại các kết quả bảo tồn ở quy mô lớn.
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.