Mắc ca là cây trồng mới chưa được nghiên cứu đánh giá thấu đáo nên nông dân cần thận trọng khi phát triển loại cây trồng này.
Hiệp hội mắc ca Việt Nam, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt vừa phối hợp với Sở NN&PTNT tỉnh Đắk Lắk tổ chức Hội thảo “Đánh giá tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển cây mắc ca trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk”. Định hướng rõ nhất tại hội thảo đối với cây mắc ca, vẫn là “cần thận trọng”.
Theo Sở NN&PTNT tỉnh Đắk Lắk, toàn tỉnh hiện có hơn 750 ha mắc ca, trong đó khoảng 600 ha trồng xen trong các vườn cà phê, hồ tiêu và 150 ha trồng thuần..
Khảo nghiệm tại huyện Krông Năng, địa phương có diện tích mắc ca lớn nhất tỉnh, năng suất cao nhất ở năm thứ 7 là 1,5 - 4tấn quả/ha. Với giá đang cao hơn 30% so với thị trường quốc tế, mắc ca thứ 7 ở Đắk Lắk có thể đạt giá trị kinh tế 150 - 350 triệu đồng/ha.
Tại hội thảo các đại biểu cho rằng, Đắk Lắk có nhiều vùng phù hợp với việc phát triển cây mắc ca và việc phát triển loại cây này sẽ góp phần đa dạng hoá sản phẩm ngành nông nghiệp của tỉnh.
Tuy nhiên, mắc ca cũng là cây trồng mới, chưa được nghiên cứu, đánh giá thấu đáo, nên nông dân cần thận trọng. Về phía UBND tỉnh Đắk Lắk, cuối năm 2017 đã yêu cầu Sở NN&PTNT tạm ngừng lập quy hoạch phát triển loại cây này.
Theo ông Nguyễn Hoài Dương, Giám đốc Sở NN&PTNT Đắk Lắk, cây mắc ca ở tỉnh vẫn đang trong diện được nghiên cứu - lập đề án. Trong đề án đề xuất với UBND tỉnh, Sở cho rằng, để phát triển cây mắc ca phù hợp với Đắk Lắk vẫn cần xác định các vùng sinh thái phù hợp và quy trình sản xuất kết nối được với thị trường vẫn là yếu tố quyết định.
“Trong đề án đề xuất, Sở cũng xác định xây dựng các vùng sản xuất mắc ca tập trung, hình thành được những tổ hợp tác hay hợp tác xã để kết nối được với các doanh nghiệp, từ đó có thị trường đầu ra ổn định, tạo được chuỗi trong sản xuất mắc ca, đó mới là yếu tố tiên quyết để người dân tổ chức sản xuất có hiệu quả”, ông Dương nói./.
Hương Lý/VOV
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.