Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) sẽ mở ra nhiều cơ hội cho ngành chế biến, xuất khẩu gỗ; kỳ vọng mang lại khoảng 1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu sang EU trong năm đầu tiên Hiệp định có hiệu lực.
Để đạt mục tiêu đó, các doanh nghiệp phải xem xét những tiêu chuẩn của thị trường EU để tìm cách áp dụng vào sản phẩm của mình. Đồng thời, cũng cần bắt đầu tìm kiếm đối tác ở EU để dễ dàng tiếp cận thị trường này.
Nhiều lợi thế
EVFTA sẽ tác động tương đối lớn tới sự phát triển của ngành gỗ xuất khẩu Việt Nam. Sản phẩm gỗ “Made in Viet Nam” sẽ được tiếp cận thị trường EU với mức thuế ưu đãi hơn các đối thủ cạnh tranh.
Với chất lượng đã được khẳng định, mức thuế ưu đãi sẽ giúp ngành gỗ Việt Nam có được nhiều đơn hàng hơn.
Thời gian gần đây, xuất khẩu đồ gỗ sang EU luôn chiếm tỷ trọng 13 - 17% tổng kim ngạch thương mại đồ gỗ, giá trị xuất khẩu sang EU luôn ổn định và tăng nhẹ. Thêm vào đó, khi EVFTA có hiệu lực (từ 1/8/2020), nhiều sản phẩm gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam được xóa bỏ thuế về 0% sẽ tạo lợi thế cạnh tranh rất lớn cho doanh nghiệp sản xuất, chế biến gỗ so với các đối thủ cạnh tranh.
Theo số liệu từ Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, hàng năm Việt Nam xuất khẩu trung bình 800 triệu USD sang EU (nếu tính cả Anh). Trong đó, các sản phẩm gỗ Việt Nam gồm: đồ gỗ phòng ngủ, đồ gỗ văn phòng, đồ gỗ phòng bếp, đồ gỗ khác và bộ phận đồ gỗ chiếm trên 65% tổng giá trị xuất khẩu, và thuế suất phải chịu là 2-10% (gỗ Chương 44) và 2,7 - 5,6% (sản phẩm gỗ).
Chỉ có 13% tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sang EU là các mặt hàng thuộc Chương 44, mặt hàng mà Việt Nam ít có lợi thế cạnh tranh. 87% còn lại thuộc Chương 94, trong đó 92% giá trị xuất khẩu của các mặt hàng thuộc chương này đang hưởng mức thuế suất 0% khi xuất sang EU.
EVFTA được đánh giá sẽ mở ra một lộ trình thênh thang cho ngành gỗ khi phần lớn sản phẩm gỗ của Việt Nam vào thị trường EU sẽ được hưởng thuế suất 0%. Lộ trình cắt giảm theo thỏa thuận khoảng 83% dòng thuế đối với các sản phẩm gỗ từ 6% về 0% ngay khi Hiệp định đi vào thực thi; 17% các mặt hàng còn lại sẽ về 0% sau 5 năm, bao gồm gỗ dán, ván sợi, ván dăm,…
Như vậy, khi Hiệp định đi vào thực thi, 99% tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sẽ được hưởng thuế xuất 0%, chỉ còn 1% giá trị xuất khẩu ở mặt hàng ván sợi, ván dăm và gỗ dán sẽ về 0% sau từ 4-6 năm.
Phân tích kỹ hơn về vấn đề này, ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, cho hay, trước đây, EU áp thuế từ 2-4% đối với các mặt hàng thuộc mã từ 4401- 4409 và áp thuế áp thuế từ 2,5-4% đối các mặt hàng thuộc mã Hs 4414/15/18/20/21. Tuy nhiên, mức thuế suất đã chính thức về 0% từ ngày 1/8, khi Hiệp định đi vào thực thi. Hiện nhóm các mặt hàng này đang chiếm 10% giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang EU, một con số còn khiêm tốn nhưng sẽ sớm trở thành một chủ lực nếu như ngành gỗ tận dụng hết dư địa này.
“Các mặt hàng thuộc mã 4410 – 4412, mức thuế EU đang áp từ 6-10%, nhóm các mặt hàng này chỉ chiếm gần 1% tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sang EU, sẽ xóa bỏ dần đều trong 4-6 năm tới và hàng hóa sau đó không bị áp thuế quan nữa”, ông Lập cho biết thêm.
Cùng trong nhóm được hưởng thuế 0% sau khi Hiệp định đi vào thực thi còn phải kể tới các sản phẩm như đồ nội thất sử dụng trong nhà bếp (HS 9403.40); bộ phận đồ gỗ (HS 9403.90); đồ nội thất kết hợp với vật liệu khác (HS 9403.80), mức thuế EU hiện áp từ 2,7-5,6%, giá trị xuất khẩu của nhóm này chiếm 7% tổng giá trị xuất khẩu sang EU.
Các mặt hàng thuộc nhóm HS 4413/17/16/19 và các mặt hàng ghế ngồi (Hs 9401); đồ gỗ văn phòng (Hs 9403.30); đồ gỗ dùng trong phòng ngủ (Hs 9403.50), đồ gỗ nội thất khác (Hs 9403.60) đã hưởng thuế 0%, giá trị xuất của nhóm này chiếm tới 82% tổng giá trị xuất khẩu.
Tận dụng tối đa thế mạnh
Nước ta đang chuẩn bị nội luật hóa các quy định để có thể nhanh chóng cấp giấy phép FLEGT (văn bản pháp lí chứng minh sự hợp pháp của sản phẩm gỗ xuất khẩu sang EU của Việt Nam), mở đường để gỗ Việt “rộng cửa” vào EU và các thị trường uy tín khác.
Nói về tiến trình thực thi Hiệp định đối tác tự nguyện giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam về thực thi lâm luật, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT), bà Nguyễn Tường Vân, Phó vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Hợp tác quốc tế (Tổng cục Lâm nghiệp), cho biết: “Hiện nay, Nghị định đã được xây dựng hoàn thiện chờ Chính phủ phê duyệt. Nếu suôn sẻ, Nghị định dự kiến được kí ban hành khoảng tháng 9/2020. Sau khi Nghị định có hiệu lực, vấn đề quản lý gỗ nhập khẩu phải áp dụng luôn theo quy định trong Nghị định, trong khi đó 6 tháng sau mới có thể tiến hành phân loại doanh nghiệp. Đến đầu năm 2021, Việt Nam có thể vận hành được hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp. Kinh nghiệm cho thấy, phải đến cuối năm 2021, đầu năm 2022 mới có giấy phép FLEGT đầu tiên được cấp”.
Ở góc độ sự chuẩn bị của doanh nghiệp để tận dụng cơ hội mà VPA/FLEGT và EVFTA đem lại, theo ông Ngô Sỹ Hoài, Phó chủ tịch - Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, đến nay, các doanh nghiệp lớn có chế biến, xuất khẩu gỗ sang EU cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong Hiệp định. Hiệp định này thực chất là sự tổng hợp, hệ thống hóa tất cả những gì ngành gỗ Việt Nam đã làm từ trước tới nay.
“Tôi khẳng định, nếu làm tốt thì với hai Hiệp định này, các đối tượng bị chi phối nhiều nhất, đồng thời cũng là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất là trên 3.000 doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gỗ; 324 làng nghề có kinh doanh trong lĩnh vực chế biến gỗ và 1,4 triệu hộ nông dân trồng rừng”, ông Hoài đánh giá.
Gỡ nút thắt thị trường
Không chỉ dừng ở khía cạnh xuất khẩu gỗ, việc tiếp cận máy móc, công nghệ hiện đại của EU cũng được các chuyên gia đề cập đến. Bởi lẽ, nếu trước đây, các loại máy móc, thiết bị, các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu từ EU phải chịu thuế từ 20 - 30%, thì khi EVFTA đi vào thực thi sẽ giảm giá thuế nhập khẩu, thậm chí được miễn thuế hoặc trả chậm khi doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư trang thiết bị. Lợi ích không nhỏ khác là nhập khẩu nguyên liệu từ EU, nguồn gỗ của EU có chất lượng tốt, nguồn gốc rõ ràng, giúp doanh nghiệp chế biến gỗ sẽ tăng khả năng thu mua khi được miễn thuế. Đây chính là cơ hội để doanh nghiệp chế biến gỗ tìm lại thị trường.
Nếu không có EVFTA với tốc độ tăng trưởng GDP hiện nay, ngành gỗ Việt Nam dễ mất sức cạnh tranh do không còn được hưởng thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP) như Malaysia, Trung Quốc…
EVFTA sẽ giúp doanh nghiệp gỗ Việt Nam tiệm cận vị trí “mắt xích” quan trọng trong các chuỗi cung sản phẩm gỗ hiện có với khách hàng EU, tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực đến các chuỗi cung ứng đồ gỗ toàn cầu như Hoa Kỳ, Nhật Bản,… Nhờ đó, doanh nghiệp Việt Nam có thể chủ động hình thành các chuỗi cung ứng mới, mở rộng thị phần xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường, thu được giá trị gia tăng cao hơn.
Trên thực tế, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm gỗ của EU khoảng 80 - 85 tỉ USD/năm. Con số đó đang lớn hơn nhiều so với kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam sang EU. Dư địa thị trường rộng mở và các nhà nước và doanh nghiệp kỳ vọng kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam vào EU sẽ đạt 1 tỉ USD ngay trong năm đầu tiên EVFTA được thực thi.
Để tận dụng cơ hội từ EVFTA, doanh nghiệp xuất khẩu gỗ cho biết “nút thắt” lớn nhất mà mọi doanh nghiệp xuất khẩu lĩnh vực này muốn vào EU phải đáp ứng, đó là nguồn gốc xuất xứ gỗ nguyên liệu. Bởi lẽ, EU sẽ từ chối đơn hàng nếu phát hiện nguồn gốc gỗ nguyên liệu được khai thác bất hợp pháp.
Để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường EU, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Xuân Cường cho hay, tới đây, Bộ sẽ ban hành kế hoạch thực hiện, trong đó đối với ngành đồ gỗ sẽ nhanh chóng triển khai VPA/FLEGT để thúc đẩy xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ bền vững. Bên cạnh đó, cần tập trung vào các vấn đề then chốt như: tăng cường diện tích rừng trồng có chứng chỉ; tất cả doanh nghiệp ngành gỗ khi tham gia chuỗi cung ứng phải minh bạch từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng.
Hàng rào thuế quan giảm mở ra cơ hội rất lớn cho ngành gỗ Việt Nam tại thị trường EU. Cùng với sự hỗ trợ từ phía cơ quan chức năng, vấn đề còn lại nằm ở chính các doanh nghiệp gỗ Việt Nam. Theo đó, cần phải xem xét những tiêu chuẩn của thị trường EU để tìm cách áp dụng vào sản phẩm của mình. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần bắt đầu tìm kiếm đối tác ở EU để dễ dàng tiếp cận thị trường này hơn.
Thứ trưởng Thường trực Bộ Nông nghiệp và PTNT Hà Công Tuấn cho rằng, về xuất khẩu năm nay, ngoài khó khăn về thị trường do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, thực hiện giãn cách xã hội, điểm đáng chú ý là một số sản phẩm của ngành lâm nghiệp đã phải chịu rào cản thương mại, đối mặt những vụ kiện về chống bán phá giá, chống lẩn tránh thuế.
“Về con số dự báo xuất khẩu của cả năm, tôi cho rằng không được thấp hơn 12 tỷ USD để bù đắp vào những phần sụt giảm ở những lĩnh vực khác”, Thứ trưởng Hà Công Tuấn nhấn mạnh.
Toàn ngành cần tiếp tục tập trung, nhìn rõ dư địa lĩnh vực còn khai thác được để đẩy mạnh khai thác, đồng thời cũng phải nhìn rõ cả những hạn chế yếu kém để kịp thời khắc phục. Làm được như vậy mới mong duy trì được đà tăng trưởng.
Ông Tuấn nhấn mạnh, thời gian tới, toàn ngành nông nghiệp nói chung và lâm nghiệp nói riêng phải tập trung vào giải quyết vấn đề thị trường. Bởi nếu mất thị trường quốc tế, xuất khẩu lâm sản sẽ sụt giảm ngay.
Tổng cục Lâm nghiệp phải hướng dẫn, kiểm tra, phối hợp với bộ, ngành liên quan giải quyết tranh chấp thương mại, nhất là với gỗ dán; đánh giá tác động của vấn đề này như thế nào.
Đồng thời, triển khai tích cực VPA/FLEGT, nắm bắt đón cơ hội từ EVFTA...
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.
Không chỉ từ khi Luật Hợp tác xã năm 2023 chính thức có hiệu lực (01/7/2024), mà trước đó, nhiều hợp tác xã (HTX) trên địa bàn Quảng Ngãi đã chủ động mở rộng các dịch vụ phục vụ và phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD) gắn với chuỗi giá trị sản phẩm. Nhờ đó, vai trò của HTX nông nghiệp (NN) đối với kinh tế hộ ngày càng rõ hơn, nhất là khi SX gặp khó khăn: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,…