Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024  
Thứ sáu, ngày 18 tháng 1 năm 2019 | 14:42

Làm gì để Việt Nam phát triển thịnh vượng?

Song song với Diễn đàn kinh tế Việt Nam 2019, tại Hội nghị trực tuyến triển khai nhiệm vụ năm 2019 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhiều thách thức và giải pháp để nền kinh tế của chúng ta bứt phá đã được đề cập.

tr2.jpg

Khu vực nông, lâm, thủy sản đã đạt kết quả rất ấn tượng, năm 2018 tăng 3,76% - tốc độ tăng cao nhất giai đoạn 2012-2018.

 

Thách thức

“Những năm qua, Chính phủ đã quan tâm thúc đẩy việc thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân, đặc biệt thông qua mô hình đối tác công - tư  (PPP), đã triển khai được 147 dự án có tổng mức đầu tư khoảng 1,14 triệu tỷ đồng (tương đương 52 tỷ USD). Những dự án với nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân đang góp phần cải thiện rõ rệt chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng”, Thứ trưởng  Bộ KH&ĐT Vũ Đại Thắng chia sẻ tại Phiên thảo luận “Quản trị, huy động vốn và phát triển cơ sở hạ tầng - Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam” trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Việt Nam năm 2019.

Theo Thứ trưởng Thắng, mặc dù Chính phủ, các cấp, các ngành  đã nỗ lực trong thời gian qua, song vẫn còn nhiều thách thức lớn đối với phát triển kết cấu hạ tầng của Việt Nam trong thời gian tới.

Cụ thể, có bốn vấn đề khó khăn cần phải giải quyết và tháo gỡ. Một là, quy mô nền kinh tế của Việt Nam không lớn do đó khả năng tích lũy hạn chế dẫn đến việc duy trì mức đầu tư cao từ ngân sách Nhà nước sẽ tạo áp lực lớn cho việc bảo đảm cân đối vĩ mô, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của toàn nền kinh tế.

Hai là, áp lực của trần nợ công còn cao, đồng thời Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình, điều này có nghĩa nguồn vốn vay nước ngoài dành cho phát triển kết cấu hạ tầng ngày càng giảm và vốn ưu đãi phải trả các mức lãi cao hơn. 

Ba là, việc duy trì và cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính để cải thiện môi trường đầu tư, thu hút các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng là một thách thức lớn đối với toàn nền kinh tế.

Bốn là, các điều kiện cần thiết để thu hút nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân cho hệ thống cơ sở hạ tầng thông qua mô hình đầu tư đối tác công - tư hiện còn hạn chế, mà nguyên nhân do Nhà nước chưa có đủ nguồn lực tài chính tham gia cộng thêm năng lực thực hiện còn yếu, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và đủ mạnh, thiếu các cơ chế bảo đảm, bảo lãnh, chia sẻ rủi ro với nhà đầu tư (như rủi ro về doanh thu, rủi ro về chuyển đổi ngoại tệ…), đi cùng là việc thực thi chưa đảm bảo yêu cầu về tính chuyên nghiệp và minh bạch của thị trường. 

Chọn đúng, hành động quyết liệt, đồng bộ các giải pháp

Tại Hội nghị trực tuyến tổng kết công tác năm 2018 và triển khai nhiệm vụ năm 2019 của ngành KH&ĐT, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng cho rằng, sẽ không có kế hoạch nào khó khăn nếu chúng ta chọn đúng, hành động quyết liệt, đồng bộ các giải pháp đã xác định.

Hãy nhìn vào nền kinh tế Việt Nam năm 2018, một bức tranh sáng sủa, tràn đầy năng lượng tích cực.

Một năm thiên tai, mưa lũ kéo dài, ảnh hưởng nhiều tới sản xuất và sinh hoạt của người dân; một năm giá cả thế giới, một số nông sản chủ lực của Việt Nam suy giảm, cạnh tranh thế giới gay gắt, xu hướng bảo hộ… tăng cao, nhưng khu vực nông, lâm, thủy sản đã đạt kết quả rất ấn tượng, tăng 3,76% - tốc độ tăng cao nhất giai đoạn 2012-2018. Đó là kết quả của quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp và cũng là nỗ lực của toàn ngành nông nghiệp, nông dân và doanh nghiệp.

Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ được vai trò động lực chính, đóng góp cho tăng trưởng với mức tăng 12,98%. Ngành dịch vụ tăng trưởng khá, góp phần đưa mức tăng khu vực dịch vụ lên 7,03%...

Xuất khẩu trở thành điểm sáng, đạt  244,7 tỷ USD, tăng 13,8%, gần gấp 2 lần chỉ tiêu Quốc hội giao. Xuất siêu lớn nhất từ trước đến nay, đạt 7,2 tỷ USD. Du lịch đánh dấu kỷ lục hơn 15,5 triệu lượt khách quốc tế…

Đặc biệt, môi trường đầu tư - kinh doanh được cải thiện mạnh mẽ, tạo niềm tin cho giới kinh doanh, tiếp tục thu hút dòng vốn đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài. Vốn đầu tư của khu vực tư nhân trong nước chiếm 18,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cùng với 19 tỷ USD giải ngân vốn FDI năm 2018, đang tạo ra năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế.

Thậm chí, với tốc độ tăng trưởng GDP 7,08% của năm 2018, lần đầu tiên, chúng ta vượt qua tốc độ tăng trưởng GDP năm 2018 của Trung Quốc, đang được dự báo là 6,6%; vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất thế giới.

Quan trọng là, tốc độ tăng trưởng cao đã đạt được cùng với lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng tín dụng ở mức thấp, kéo theo sự khởi sắc trong các lĩnh vực xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo giảm. GDP bình quân đầu người đạt 2.587 USD, tăng 198 USD so với năm 2017.

Mục tiêu tăng trưởng của cả giai đoạn 2016 - 2020, nhờ vậy có thể đạt 6,5% - tạo nền tảng cho phát triển của nền kinh tế giai đoạn tới theo hướng duy trì tốc độ tăng trưởng cao, liên tục trong một thời gian dài.

Có được kết quả tích cực này là do các chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã đi vào cuộc sống và thu được kết quả tích cực. Như cơ cấu lại nền kinh tế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo niềm tin cho xã hội. Đặc biệt, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, thông qua kiểm tra đôn đốc thường xuyên việc thực hiện các nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương đã kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Tiếp tục bứt phá

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định: Việc đạt tốc độ tăng trưởng GDP 7,08% và ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát trong bối cảnh tài chính, thương mại thế giới có nhiều biến động, nhiều nền kinh tế tăng trưởng chậm lại là một minh chứng rõ nét.

“Chúng ta đã thành công với năm “bản lề” và chúng ta cần hướng tới những năm tiếp theo, nhất là năm 2019, năm “bứt phá” để thực hiện các Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020. Mỗi năm đều có những khó khăn, thách thức và yếu tố thuận lợi riêng nhưng chúng ta cần kiên định lập trường cải cách, đổi mới, vươn lên, sẵn sàng ứng phó với những biến động, củng cố sự vững vàng, độc lập, tự chủ của nền kinh tế để hướng tới mục tiêu thịnh vượng, bền vững”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Bộ trưởng Dũng phân tích, năm 2019, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; kinh tế thế giới dự báo tăng trưởng chậm lại và tác động của căng thẳng thương mại là hiện hữu, xu hướng bảo hộ thương mại và căng thẳng địa chính trị chứa đựng nhiều nguy cơ rủi ro. Trong khi đó, ở trong nước, những tồn tại, bất cập nội tại của nền kinh tế tuy bước đầu được giải quyết nhưng vẫn cần nhiều thời gian để khắc phục. Cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh đã có nhiều chuyển biến rõ nét nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu…

“Trong bối cảnh này, chúng ta phải tận dụng bằng được các cơ hội đem lại, dù là nhỏ nhất để phát triển bứt phá”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng một lần nữa nhấn mạnh.

Các cơ hội đó, theo Bộ trưởng, đến từ đà tăng trưởng kinh tế tích cực đã có được 2 năm qua; đến từ xu thế các ngành, lĩnh vực, địa phương đang tăng trưởng tốt; đến từ những quyết sách đang tiếp tục phát huy hiệu quả…

Ngoài ra, cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là về công nghệ, kỹ thuật, quản lý là rất lớn; cơ hội từ làn sóng dịch chuyển vốn đầu tư toàn cầu - dự báo tiếp tục chảy về khu vực năng động, trong đó, Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn… Do đó, cần chuẩn bị tốt mọi điều kiện để đón nhận có chọn lọc và đẩy mạnh sự kết nối giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài.

Phải kiên định mục tiêu, giải pháp ngắn hạn và dài hạn nhằm hướng tới đạt được sự phát triển bứt phá không chỉ cho năm 2019 mà còn nhiều năm tiếp theo; phấn đấu đưa Việt Nam trở thành nước có mức thu nhập trung bình cao, thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường, tiến bộ và công bằng về xã hội;…

Các nhiệm vụ cụ thể đã được Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhắc tới, đó là phải làm sao gia tăng tốc độ bứt phá của tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và tiến trình thực hiện 3 đột phá chiến lược...

Bên cạnh đó, nhanh chóng hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia và đẩy mạnh hoạt động của mạng lưới kết nối đổi mới sáng tạo, góp phần phát triển nguồn nhân lực và đổi mới sáng tạo gắn liền với ứng dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển các mô hình sản xuất thông minh, đô thị thông minh, tăng trưởng xanh, năng lượng sạch, tăng khả năng chống chịu và thích ứng với biến đổi khí hậu.

“Phải cải thiện bứt phá hiệu quả quản trị nhà nước gắn liền với xây dựng bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả thực thi chính sách ở mọi cấp, mọi ngành, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình. Khắc phục căn bản tình trạng ‘trên nóng dưới lạnh’ và ‘kinh tế 4.0 nhưng quản lý mới 1.0", Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.

 

 

 

 

Đông Kỳ
Ý kiến bạn đọc
Top