Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, hiện nay, Việt Nam đang sử dụng thuốc bảo vệ thực vật 100.000 tấn/năm. Sự lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật gây độc hại cho chính người sản xuất, cộng đồng.
Đây là con số được Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Xuân Cường đưa ra tại Hội nghị “Định hướng về công tác bảo vệ thực vật trong tình hình mới”, do Bộ này tổ chức sáng nay (15/5), tại Hà Nội.
Bất cập lớn
Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật đang tồn tại nhiều bất cập, gây độc hại cho chính người sản xuất và cộng đồng, giảm sự cạnh tranh của sản phẩm, gây thoái hóa đất đai…
"Một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật vẫn lệ thuộc vào nhập khẩu, do đó, để việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hợp lý hơn, trước hết phải giảm về mặt cơ học, đặc biệt phải có lộ trình ngay với nhóm thuốc trừ cỏ, nhóm có độc tố cao được sản xuất từ lâu, hiện không còn phù hợp với hệ sinh thái," Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh.
Trải qua gần 60 năm hình thành phát triển, hệ thống ngành bảo vệ thực vật (BVTV) đã bảo vệ tốt năng suất cây trồng, ngăn chặn các dịch hại trên cây trồng, góp phần đưa nền nông nghiệp đất nước vốn thiếu lương thực trầm trọng trở thành quốc gia hàng đầu về xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp với tổng giá trị 36,2 tỷ USD năm 2017, riêng ngành trồng trọt chiếm tới hơn 20 tỷ USD về kim ngạch xuất khẩu.
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, tình trạng lạm dụng thuốc BVTV thời gian qua đến làm tăng giá thành sản phẩm nông sản, tác động tới tác động không nhỏ tới môi trường. Trước thách thức của biến đổi khí hậu, nguy cơ làm gia tăng dịch bệnh đối với cây trồng và những đòi hỏi yêu cầu về chất lượng sản phẩm trồng trọt từ thị trường, đòi hỏi công tác BVTV phải có sự thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu hạn chế, khắc phục tình trạng lạm dụng thuốc BVTV, giảm giá thành sản phẩm, gia tăng chất lượng nông sản đồng thời bảo vệ tốt môi trường.
Để làm điều này, theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường trong thời gian tới ngành trồng trọt hướng tới cần giảm việc sử dụng phân bón hóa học tăng sử dụng phân bón hữu cơ, thuốc BVTV sinh học…
Về vấn đề này, chia sẻ tại hội nghị, ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và PTNT) cho biết, thị trường phân bón và thuốc bảo vệ thực vật đang có sự mất cân đối nghiêm trọng. Trong số 4.000 sản phẩm thuốc bảo vật thực vật, chỉ có 19% là thuốc sinh học, còn lại là thuốc hoá học. Trong cơ cấu cây trồng cũng có sự mất cân đối khi có 3.800 loại thuốc tập trung cho cây lúa, chỉ có 200 sản phẩm cho các cây trồng khác. Với thị trường phân bón, phân vô cơ chiếm trên 90% và phân bón hữu cơ được sử dụng chỉ khoảng trên 1 triệu tấn, chiếm tỉ lệ chưa đến 10%.
Theo ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục BVTV, trong thời gian qua, ngành BVTV cũng tập trung xây dựng các mô hình áp dụng tiến bộ kỹ thuật, mô hình sản xuất thân thiện với môi trường để triển khai, nhân rộng đến nông dân. Cụ thể như: Chương trình 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm và mô hình “công nghệ sinh thái” được nhiều tỉnh triển khai trên gần 2 triệu ha/năm từ nhiều nguồn kinh phí hỗ trợ khác nhau; Năm 2017 tổ chức được 1.123 lớp tập huấn và triển khai nhiều mô hình với khoảng 87.000 lượt nông dân tham gia.
Tuy nhiên trong tình hình mới, có một số yếu tố đã và đang phát sinh ảnh hưởng đến hoạt động của ngành BVTV, trong những năm gần đây biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng rõ nét.
Hạn hán, lũ lụt, mưa trái mùa, mùa đông ấm, rét đậm kéo dài, … tác động mạnh mẽ đến sản xuất trồng trọt, không những làm ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng của cây trồng mà còn làm bùng phát nhiều sinh vật gây hại (SVGH) mới hoặc thay đổi quy luật phát sinh gây hại của SVGH, điển hình như bệnh lùn sọc đen, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá hại lúa, bệnh chổi rồng nhãn, bệnh đốm nâu hại thanh long, rệp sáp bột hồng và bệnh khảm lá sắn, sâu đục thân mía loài mới, bệnh chết nhanh, chết chậm hại hồ tiêu, châu chấu tre lưng vàng gây hại trên tre luồng mới xuất hiện; sâu năn, bệnh bạc lá, bệnh đạo ôn hại lúa, bọ xít muỗi, bệnh thán thư hại điều tái bùng phát hoặc thay đổi quy luật gây hại...
Mặt khác, khi đời sống kinh tế ngày càng cao, nhu cầu được sử dụng thực phẩm an toàn của người tiêu dùng trong nước cũng tăng theo. Để thỏa mãn nhu cầu này của xã hội, việc tổ chức sản xuất nông nghiệp phải khoa học hơn, trong đó chú trọng việc sử dụng cân đối giữa phân bón vô cơ và hữu cơ, hạn chế sử dụng thuốc BVTV hóa học là vấn đề cần thiết. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay vẫn còn một bộ phận lớn nông dân chỉ quan tâm đến năng suất, lợi nhuận mà không chú ý đến chất lượng nông sản. Vì thế, việc lạm dụng thuốc BVTV hóa học và phân bón vô cơ vẫn đang diễn ra ở nhiều địa phương.
Ngoài ra, trong bối cảnh các Hiệp định thương mại tự do đang được ký kết từ cấp song phương đến châu lục và liên châu lục thì rào cản kỹ thuật đang được các nước sử dụng triệt để như một biện pháp bảo vệ sản xuất trong nước của họ. Chính vì thế, hàng rào kỹ thuật cả về kiểm dịch thực vật (KDTV) và ATTP đang được các nước nâng lên ở mức rất cao.
Cụ thể là về mặt KDTV, các nước hầu như đòi hỏi nước xuất khẩu phải cung cấp một bộ tài liệu kỹ thuật rất chi tiết về thành phẩn dịch hại, biện pháp phòng trừ, sản lượng, phân bố vùng trồng.
Sản xuất theo chuỗi
Trước xu thế và nhu cầu về sản xuất sạch, bền vững gắn liền với bảo vệ môi trường, công tác quản lý vật tư nông nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Cục đang đứng trước rất nhiều thách thức.
Thách thức thứ nhất theo ông Trung là phải có một Danh mục thuốc BVTV thực sự hiệu quả, an toàn và thân thiên với môi trường. Để làm được điều này, nhiệm vụ trước mắt là phải quản lý chặt đầu vào khảo nghiệm và loại bỏ được các loại thuốc kém chất lượng, độc hại với con người và môi trường. Tuy nhiên cơ sở dữ liệu và các căn cứ khoa học liên quan đến vấn đề này còn thiếu rất nhiều. Vì vậy, việc loại bỏ thuốc BVTV ra khỏi danh mục gặp rất nhiều khó khăn.
Hơn nữa, số lượng thuốc BVTV trong danh mục hiện nay còn đang mất cân đối, chủ yếu là thuốc phòng trừ sâu bệnh trên cây lúa, các đối tượng cây trồng khác chưa được tập trung phát triển.
Thứ hai, số lượng nhà máy sản xuất (735 nhà máy) cũng như sản phẩm phân bón (gần 20.000 sản phẩm) đang rất lớn và mất cân đối, chủ yếu là phân bón vô cơ. Bên cạnh đó, hiện tại đang còn khoảng hơn 200 chỉ tiêu chất lượng bao gồm cả vi sinh và hóa lý đã được công bố trong các sản phẩm phân bón nhưng không có phương pháp thử được phê duyệt trong nước đã tạo ra áp lực không nhỏ cho công tác quản lý nhà nước.
Thứ ba, mặc dù thời gian gần đây đã có nhiều chuyển biến tích cực trong vấn đề sử dụng thuốc BVTV và phân bón nhưng việc lạm dụng thuốc BVTV hóa học và phân bón vô cơ của người dân vẫn đang rất đáng báo động. Điều này đã dẫn đến các nguy cơ về mất ATTP, gây ô nhiễm môi trường, thoái hóa đất và đặc biệt là tình trạng kháng thuốc của SVGH.
Để khắc phục tình trạng trên, ông Hoàng Trung cho rằng, việc liên kết chuỗi sản xuất và tiêu thụ là xu hướng tất yếu trong sản xuất hàng hóa, thị trường hóa sản xuất nông nghiệp để đảm bảo có thể quản lý tốt việc sử dụng các loại thuốc BVTV, phân bón nhằm đảm bảo yêu cầu về ATTP cho sản phẩm nội tiêu cũng như đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Liên kết sản xuất còn là yếu tố quan trọng để tổ chức thu gom bì thuốc BVTV sau sử dụng, không để gây ô nhiễm môi trường. Đồng thời, các chuỗi liên kết cũng là tiền đề quan trọng để áp dụng các công nghệ 4.0 vào thực tế sản xuất.
Ngoài ra, theo ông Trung cần tiếp tục rà soát, quản lý chặt chẽ vật tư nông nghiệp ở tất cả các khâu từ khảo nghiệm, đăng ký đến sử dụng. Kiên quyết hoàn thiện đủ các căn cứ khoa học để loại bỏ các loại vật tư nông nghiệp kém chất lượng, gây hại cho sức khỏe con người và môi trường ra khỏi Danh mục.
Về quản lý phân bón, ngành nông nghiệp phấn đấu đến năm 2021, tăng lượng phân bón hữu cơ sản xuất công nghiệp để sử dụng trong nước ít nhất là 3 triệu tấn/năm và xuất khẩu đạt 0,5 triệu tấn/năm; tăng tỷ lệ sản phẩm phân bón hữu cơ so với tổng số sản phẩm phân bón từ 5% hiện nay lên 10%.
Về quản lý thuốc BVTV, rút ngắn 30% số lượng tên thương phẩm trong Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam; tăng 30% lượng thuốc BVTV sinh học được đăng ký và sử dụng.
Tiếp tục khuyến khích nghiên cứu, chuyển giao, sản xuất, kinh doanh và ứng dụng biện pháp sinh học, phân bón hữu cơ, thuốc BVTV sinh học để phòng, chống SVGH.
Bên cạnh đó, Cục Bảo vệ Thực vật sẽ hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đồng thời rà soát, siết chặt hệ thống phòng thử nghiệm, tổ chức chứng nhận hợp quy để đảm bảo quản lý tốt chất lượng vật tư nông nghiệp
Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, tuân thủ các quy định về quản lý phân bón trong tất cả các khâu từ khảo nghiệm, sản xuất, kinh doanh và sử dụng phân bón, thuốc BVTV.
Tăng cường phối hợp với các lực lượng chức năng như Công an, Quản lý thị trường, v.v. để ngăn chặn việc sản xuất, kinh doanh phân bón, thuốc BVTV giả, không bảo đảm chất lượng.
Tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong công tác thanh tra, kiểm tra. Hướng dẫn, đôn đốc hệ thống ngành BVTV và chính quyền địa phương, nhất là cấp huyện, xã thực hiện nhiệm vụ quản lý vật tư nông nghiệp trên địa bàn quản lý.
Đối với người sản xuất phải tham gia sản xuất chuỗi, hình thành vùng sản xuất với các đối tượng cây trồng sẽ có kỹ sư hướng dẫn phương thức trồng trọt. Khi đó sẽ chỉ phun khi đúng bệnh, đúng thời điểm, liều lượng….
“Phải chấp nhận lấy hiệu quả kinh tế ở mức độ phù hợp, bền vững, chứ không phải mục tiêu tối cao là năng suất, sản lượng cao”, Bộ trưởng Cường nêu rõ./.
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.