Ngày 18/11, tại Tuyên Quang diễn ra Diễn đàn Khuyến nông @ nông nghiệp với chủ đề giải pháp liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm bưởi. Tại đây đã đưa ra nhiều giải pháp để phát triển bền vững cây bưởi ở các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc.
Toàn cảnh Diễn đàn.
Hết năm 2019, diện tích cây có múi cả nước đạt 256,9 nghìn ha, chiếm 24,07% tổng diện tích cây ăn quả. Trong đó, riêng miền Bắc, diện tích cây có múi đạt 121,97 nghìn ha, chiếm 47,5% diện tích cây có múi cả nước.
Diện tích bưởi cả nước đạt 97,9 nghìn ha, sản lượng 818,9 nghìn tấn, xuất khẩu đạt gần 4,8 triệu USD, trong 9 tháng đầu năm 2020 xuất khẩu bưởi tăng mạnh, đạt 10,9 triệu USD, tăng 246,2% so cùng kỳ 2019. Trong đó, riêng các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc đạt 27,7 nghìn ha, sản lượng gần 165 nghìn tấn/năm.
Ông Lê Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Tuyên Quang cho biết, diện tích bưởi toàn tỉnh đạt 4.867 ha, trong đó, huyện Yên Sơn trên chiếm tới 4.012 ha, diện tích cho sản phẩm 1.858 ha, năng suất 102,2 tạ/ha, sản lượng đạt 18.992 tấn. Trong đó, diện tích bưởi trồng theo quy trình VietGAP là 19 ha; hữu cơ chuyển đổi 30 ha. Đây là cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, có tiềm năng mở rộng diện tích trong thời gian tới. Năm 2019, tổng số lượng bưởi đạt 49.152.400 quả, giá bán bình quân 10.000 đồng/quả, ước tổng giá trị thu nhập đạt trên 491 tỷ đồng.
Cũng theo ông Tuấn, sản xuất cây bưởi tại Tuyên Quang còn gặp nhiều khó khăn, trình độ thâm canh của người dân còn hạn chế, chủ yếu canh tác theo tập quán, kinh nghiệm; chưa thật chú trọng đầu tư thâm canh, năng suất không ổn định. Khâu chọn giống và kỹ thuật nhân giống chưa đáp ứng được nhu cầu. Diện tích bưởi trồng mới phát triển ồ ạt; chất lượng sản phẩm quả chưa đồng đều, diện tích sản xuất bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP còn ít. Chưa có nhiều doanh nghiệp liên kết sản xuất tiêu, thụ sản phẩm.
Các đại biểu trao đổi về kinh nghiệm trồng bưởi.
Theo Cục chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Việt Nam có trên 157 cơ sở chế biến rau quả quy mô công nghiệp và hàng nghìn cơ sở chế biến có qui mô nhỏ, hộ gia đình. Công suất thiết kế của các cơ sở chế biến rau quả quy mô công nghiệp gần 1,1 triệu tấn sản phẩm/năm, nhưng sản lượng thực tế chỉ đạt khoảng trên 600 - 700 nghìn tấn sản phẩm/năm.
Hiện, chế biến quả có múi nói chung và bưởi nói riêng của nước ta còn rất hạn chế, chưa có doanh nghiệp chuyên chế biến quả có múi, dòng sản phẩm chủ yếu là quả tươi, một phần nhỏ được chế biến nước cam, bưởi tươi, nước cam cô đặc, mứt, cùi cam bưởi sấy, rượu vang... với số lượng nhỏ và chủ yếu tiêu thụ trong nước.
Với sản phẩm xuất khẩu, Việt Nam mới thực hiện các công đoạn như: phân loại, làm sạch bên ngoài (công nghệ ướt, công nghệ khô), đóng gói, bao lưới, bảo quản trong kho lạnh và xuất hàng theo yêu cầu của các đối tác.
Thực trạng hiện nay ở nhiều địa phương vẫn chưa có giống quả có múi phù hợp cho chế biến; giá thành sản xuất cây có múi giá thành cao, chất lượng và ATTP chưa đảm bảo, không đáp ứng được yêu cầu cho chế biến quy mô công nghiệp.
Ban cố vấn giải đáp các câu hỏi của người trồng bưởi liên quan tới sâu bệnh.
Theo Trung tâm Khuyến nông tỉnh Hòa Bình, hiện nay, một số hình thức liên doanh, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các tác nhân tham gia chuỗi chưa thực sự phù hợp, chặt chẽ. Chưa thấy được lợi ích lâu dài của việc liên doanh, liên kết; doanh nghiệp chưa chú trọng vào khâu đầu tư vùng nguyên liệu để thực hiện hợp đồng sản xuất bền vững.
Nội dung hợp đồng bao tiêu sản phẩm mang tính nguyên tắc, do vậy không phải là hợp đồng kinh tế nên tính pháp lý không cao, rất dễ xảy ra tình trạng vi phạm hợp đồng. Số lượng doanh nghiệp/HTX là hạt nhân bao tiêu sản phẩm cho nông dân không nhiều; số lượng hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả còn ít. Doanh nghiệp, HTX thiếu vốn đầu tư cho tổ chức sản xuất.
Tại Diễn đàn nhiều các đại biểu đã thảo luận, đã đưa ra nhiều giải pháp để phát triển, định hướng tiêu thụ bưởi vùng Trung du miền núi phía Bắc.
Ông Tạ Hữu Quang, HTX Trái cây hữu cơ xã Phúc Ninh (Yên Sơn, Tuyên Quang), mong muốn, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư về Tuyên Quang và HTX tạo thành chuỗi liên kết từ đầu vào đến khâu tiêu thụ để các bên cùng có lợi.
Theo Trung tâm khuyến nông tỉnh Bắc Giang, cần đẩy mạnh việc xây dựng mô hình, áp dụng mở rộng sản xuất cây ăn quả có múi theo hướng công nghệ cao, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP để nâng cao năng suất, chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người sản xuất.
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm hàng hóa, tem nhãn có thể truy xuất nguồn gốc sản phẩm hàng hóa để mỗi sản phẩm của Bắc Giang có đặc trưng riêng, nhãn hiệu riêng dễ nhận biết, đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Theo Trung tâm Khuyến nông tỉnh Yên Bái, cần chủ động quảng bá, giới thiệu sản phẩm ngay tại địa phương. Từ năm 2017 đến nay tỉnh Yên Bái đã tổ chức 03 Lễ hội Bưởi Đại Minh với nhiều hoạt động hấp dẫn. Đây chính là dịp tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống và nét độc đáo của thiên nhiên, con người đồng bào các dân tộc tỉnh Yên Bái, cũng là cơ hội quảng bá, tuyên truyền tiềm năng thế mạnh của tỉnh, đồng thời tạo những điểm nhấn thu hút du khách, giới thiệu sản phẩm Bưởi Đại Minh và các sản phẩm nông sản địa phương khác đến với bạn bè trong và ngoài nước.
Một số chuyên gia cho rằng, cần thực hiện liên kết sản xuất, tiêu thụ, khuyến khích doanh nghiệp liên kết với nông dân trong chuỗi giá trị bưởi trồng tập trung; Đẩy mạnh sản xuất rải vụ thu hoạch; Xây dựng kế hoạch để chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện cho bưởi xuất khẩu.
Tận dụng tốt cơ hội từ các Hiệp định Thương mại tự do như: EVFTA ưu đãi thuế đối với hầu hết các dòng hàng rau quả từ Việt Nam để đẩy mạnh tiêu thụ bưởi và các sản phẩm chế biến từ bưởi vào thị trường EU. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại và khuyến khích tiêu thụ tại thị trường trong nước; trao đổi hàng hóa giữa các vùng miền khi vào mùa thu hoạch rộ...
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.