Nhiều chủ tàu ở thị xã Hoàng Mai rất phấn khởi, vì chỉ vài chuyến biển ra khơi đánh mực nang, họ kiếm được hàng trăm triệu đồng/tàu.
Những ngày gần đây, hàng chục tàu cá hành nghề lưới hồng ở phường Quỳnh Phương (thị xã Hoàng Mai) liên tiếp về bờ, sau nhiều ngày bám biển, đánh bắt hải sản. Đây là chuyến thứ 2 trong tháng và tàu nào cũng trúng đậm mực nang và cá chuồn.
Ra khơi đánh bắt ở vùng biển Vịnh Bắc Bộ, chỉ sau 10 ngày, tàu của anh Nguyễn Văn Duyên, xã Quỳnh Phương, đã thu được 7 tấn mực nang và cá chuồn, với tổng thu nhập hơn 500 triệu đồng; trong đó mực nang đạt hơn 2 tấn, thu trên 300 triệu đồng.
Theo đó, mùa mực nang bắt đầu từ tháng 8 - 12 ÂL. Để khai thác, ngư dân phải sử dụng lưới hồng. Khoảng 3 giờ sáng, thả lưới xuống biển, chờ 4 - 5 tiếng mới kéo lên, mực sẽ đóng vào lưới, và ngư dân gỡ ra cho vào khay.
Khi khoang đầy mực, một số tàu đã xuất bán ngay trên biển, cho các tàu ở Hải Phòng, và giữ lại mấy tạ mang về bờ nhập cho thương lái.
Mực nang càng to, thớ thịt càng ngon, chắc và giòn, chính vì thế mà mực càng to, thì giá càng cao. Hiện, mực loại to đang tươi sống, có giá 200.000 đồng/kg, nếu ướp đá lạnh, giá 170.000 đồng/kg. Còn lại, dao động từ 80 – 150.000 đồng/kg.
Ngoài mực nang, ngư dân Hoàng Mai còn đánh được hàng chục tấn cá chuồn... Ngư dân chia sẻ, từ tháng 8 đến nay, mỗi tháng 2 chuyến đi biển, mỗi lao động thu bình quân trên 20 triệu đồng/người.
Ngoài ra, có tàu đánh được hàng chục khay tôm loại 10 – 12 con/kg, có giá trị 350.000 đồng/kg. Những chuyến biển cuối năm được mùa, đã khích lệ ngư dân vươn khơi bám biển.
Thị xã Hoàng Mai hiện có khoảng 600 tàu cá, trong đó, có hơn 100 chiếc nghề lưới hồng, 200 chiếc lưới bao, còn lại các nghề khác.
Ông Hồ Xuân Hường – Chủ tịch UBND phường Quỳnh Phương (thị xã Hoàng Mai) cho biết: “Nhiều tàu cá về bờ gần đây đều trúng đậm hải sản, cho thu nhập cao, có tàu thu về 400 – 500 triệu đồng; mặc dù chưa hết năm, nhưng sản lượng đánh bắt đã đạt gần 17.000 tấn (tăng 1.500 tấn) so kế hoạch đề ra là 15.600 tấn”.
Cấp chứng thư điện tử xuất khẩu thuỷ sản sang EU
Việc cấp chứng thư theo hệ thống mới, sẽ được phê duyệt bằng chữ ký điện tử, thay cho việc cấp chứng thư bằng giấy như hiện nay.
Thuỷ sản Việt Nam được đánh giá cao tại thị trường EU
Cục Xuất - Nhập khẩu (Bộ Công Thương) mới có thông tin lưu ý doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sang EU. Theo đó, từ ngày 14.12.2019, các lô hàng vào EU, sẽ cấp chứng thư theo hệ thống mới Traces New Technology – TRACESNT, thay hệ thống TRACE Classic.
Hệ thống TRACESNT có nhiều cải tiến, đổi mới trong việc khai báo thông tin, phân quyền. Nhất là cấp chứng thư theo hệ thống mới này, sẽ được phê duyệt bằng chữ ký điện tử, thay cho bằng giấy như hiện nay.
Đầu tháng 11 vừa qua, Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản (NAFIQAD - Bộ NN&PTNT) cũng đã có công văn về việc cập nhật danh sách cơ sở chế biến, xuất khẩu thủy sản vào EU.
Căn cứ đề nghị của NAFIQAD, Tổng vụ Sức khỏe và An toàn thực phẩm (DG-SANTE) thuộc Ủy ban châu Âu, đã thông báo tới các nước thành viên và đăng tải Danh sách các cơ sở chế biến thủy sản của Việt Nam, được phép xuất khẩu vào EU.
Theo đó, có 18 cơ sở bổ sung vào danh sách, 17 cơ sở được điều chỉnh, và 8 cơ sở bị đưa ra khỏi danh sách. Tuy nhiên, trong danh sách cập nhật trên, thông tin của các cơ sở mã số DL 06, DL 676, TS 508 có thiếu ghi chú về nhóm sản phẩm thuỷ sản nuôi. NAFIQAD đã đề nghị EU bổ sung thông tin còn thiếu.
Do đó, NAFIQAD cũng đã thông báo, và yêu cầu các đơn vị, cơ quan liên quan, sớm rà soát thông tin, kịp thời thông báo, nếu có sai khác thông tin của doanh nghiệp. Các cơ sở mã số DL 06, DL 676, TS 508 lưu ý, tạm thời chưa xuất khẩu sản phẩm thủy sản nuôi, trong khi chờ NAFIQAD nhận được tin của EU, tránh ảnh hưởng đến tiến độ xuất khẩu của doanh nghiệp.
Lối thoát nào cho “tàu 67” ở Phú Quý?
Hiện, huyện Phú Quý (Bình Thuận) là một trong những địa phương có số lượng “tàu 67” nhiều nhất tỉnh, đã lần lượt hạ thủy,. Tuy nhiên, sau vài năm hoạt động, đội tàu này liên tục thua lỗ, dẫn đến nhiều phát sinh không lường trước được…
Tàu đánh bắt xa bờ đang gặp nhiều khó khăn
Tính đến 8/2019, đã có 116 hồ sơ được Tỉnh phê duyệt, (đóng mới 103 chiếc; nâng cấp 13 chiếc). Số tàu thuyền đã vay vốn đóng mới, nâng cấp và đi vào hoạt động là 88 chiếc, trong đó: tàu vỏ thép 16 chiếc; composite 8 chiếc; gỗ 64 chiếc.
Đây cũng là huyện có số tàu làm dịch vụ thủy sản nhiều nhất tỉnh: 35 chiếc, nhưng hoạt động rất cầm chừng. Nguyên nhân do hoạt động kém hiệu quả, chưa đa dạng sản phẩm thu mua.
Mặt khác, số lương tàu dịch vụ phát triển quá nhiều, trong khi sản lượng khai thác của tàu đánh bắt trên biển liên tục bị sụt giảm. Vào vụ cá bấc, hầu hết tàu cá khai thác xa bờ ngừng hoạt động, đội tàu dịch vụ cũng phải nằm bờ. Điều này, tạo áp lực thêm cho chủ tàu trong việc trả nợ ngân hàng.
Anh Đỗ Thanh Hưng – một chủ tàu vỏ thép ở Phú Quý chia sẻ: “Tôi đóng tàu 67 với mục đích kinh doanh xăng dầu trên biển. Nhưng khi hạ thủy, Nhà nước lại cấm loại hình này, nên tàu gần như phá sản, do vốn đầu tư quá lớn”.
Theo UBND huyện Phú Quý, một số tàu hoạt động có hiệu quả, trả lãi và vay đúng quy định, nhưng chỉ có 35/88 chiếc. Số kém hiệu quả, hòa vốn và lỗ là 53 chiếc (chiếm 60,2%).
Đặc biệt, có 1 chiếc của ông Võ Phú Thanh, đã giải ngân nhưng chưa hoạt động, dư nợ hơn 4,8 tỷ đồng. Nguyên nhân, do ông Thanh thiếu nợ bên ngoài, bị chủ nợ xuống tàu tháo gỡ thiết bị.
Do đó, ông Thanh không còn khả năng tài chính để tiếp tục thực hiện dự án. Ngân hàng đã ngừng giải ngân và tiến hành xử lý nợ. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Phú Quý đã khởi kiện khách hang. Hiện tòa án đã thụ lý hồ sơ để xét xử.
Nghị định 67 là chủ trương lớn của Nhà nước mang, đồng bộ, phù hợp với tâm tư nguyện vọng của ngư dân. Có tàu lớn, hiện đại sẽ giúp ngư dân bám biển, nâng cao thu nhập, góp phần bảo vệ chủ quyền Tổ quốc.
Song, hiện nay, một số tàu đã đến kỳ hạn trả lãi và gốc cho ngân hang, nhưng việc thanh toán rất chậm. Một số tàu làm ăn thua lỗ, nên đề nghị cho gia hạn trả chậm.
Lãnh đạo huyện Phú Quý cho biết: Gần đây, nguồn lợi hải sản đang bị suy giảm, thời tiết diễn biến bất thường, thị trường không ổn định... Ngư dân chưa có kinh nghiệm trong vận hành tàu lớn, trang thiết bị hiện đại, dẫn đến hư hỏng, thất thoát nhiều.
Một số chủ tàu sau khi được vay vốn, đã có tư tưởng ỷ lại, nghĩ đây là tài sản của Nhà nước, nên làm không được, giao tàu lại cho ngân hàng là hết trách nhiệm.
Trước những bất cập trên, một số chủ tàu sản xuất, kinh doanh thua lỗ muốn chuyển sang nghề khác, hoặc muốn chuyển đổi chủ tàu cho người khác, nhưng việc này vẫn chưa thực hiện được.
Để đội “tàu 67” tiếp tục vươn khơi, cần có những điều chỉnh chính sách phù hợp hơn, sớm khắc phục những bất cập, khó khan, giúp ngư dân an tâm bám biển, trả nợ ngân hang, làm giàu chính đáng từ biển…
Nghệ An: Nuôi cá lóc mõm nhím, lãi hàng trăm triệu đồng
Cá lóc mõm nhím, tăng trọng nhanh, dễ nuôi, kích cỡ đồng đều. Ảnh: Hồng Diện
Lần đầu tiên anh Bùi Văn Thỏa, xóm 11, xã Quỳnh Hưng thả nuôi cá lóc mõm nhím mật độ cao, cho hiệu quả tốt.
Theo anh Thỏa, cá lóc mõm nhím tăng trọng nhanh, dễ nuôi, nhưng để cá khỏe mạnh, kích cỡ đều, nguồn nước sạch rất quan trọng.
Do vậy, cứ 5 – 10 ngày, anh thay nước, dùng chế phẩm sinh học diệt khuẩn ao nuôi. Hoặc, ngày nắng nóng, anh bật máy đảo nước thường xuyên, tránh cho cá bị bỏng nước, dẫn đến chết.
Anh Thỏa cũng chọn thức ăn đảm bảo độ đạm, giúp cá lớn nhanh, tránh ăn thịt lẫn nhau. Nhờ tuân thủ quy trình nuôi, đến thời điểm này, cá lóc của anh đạt gần 30 tấn.
Với 15 vạn con/ 2.500 m2, giá bán: 40-45 nghìn đồng/kg, trừ chi phí, lãi hơn trăm triệu đồng.
Anh Phạm Văn Phú, xóm 9, xã Quỳnh Hưng, có 3.000 m2, nuôi cá truyền thống không hiệu quả, cũng được Trạm khuyến nông huyện hỗ trợ kinh phí, nên chuyển sang nuôi cá lóc mõm nhím.
Để có nguồn nước cấp vào ao nuôi kịp thời, anh Phú đã dành 1.000 m2 để làm ao lắng trữ nước. Sau khi xử lý ao, gây màu nước, anh đã thả 25.000 con giống.
Quá trình nuôi, anh luôn kiểm tra đăng cống, bờ ao chống rò rỉ, đảm bảo mực nước 1,5 m trở lên. Khi cá trưởng thành, anh cắt giảm thức ăn từ 80 – 90%.
Sau mưa lớn, anh Phú rải vôi xuống ao, xung quanh bờ diệt mầm bệnh gây hại. Đồng thời, chạy máy phun mưa, thay nước mới, giúp ao nuôi luôn sạch.
Hàng ngày, anh trộn Vitamin C, men tiêu hóa vào thức ăn, để tăng sức đề kháng cho cá, phòng bệnh nấm mang, sưng phù nề, bệnh đường ruột.
Sau gần 7 tháng, anh Phú bán toàn bộ cá lóc, sản lượng ước 10 tấn, thu gần 500 triệu đồng. Trừ tiền thức ăn, giống, lãi hơn trăm triệu đồng, cao gấp 5 – 7 lần so cá trắm, mè, rô phi.
Hiện, Quỳnh Lưu đang phấn đấu đưa con cá lóc trở thành con nuôi mới. Đồng thời, tạo vùng nuôi tập trung để liên kết tiêu thụ sản phẩm, nhất là thị trường miền Bắc và Trung Quốc.
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.
Không chỉ từ khi Luật Hợp tác xã năm 2023 chính thức có hiệu lực (01/7/2024), mà trước đó, nhiều hợp tác xã (HTX) trên địa bàn Quảng Ngãi đã chủ động mở rộng các dịch vụ phục vụ và phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD) gắn với chuỗi giá trị sản phẩm. Nhờ đó, vai trò của HTX nông nghiệp (NN) đối với kinh tế hộ ngày càng rõ hơn, nhất là khi SX gặp khó khăn: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,…