Những năm gần đây, nghề nuôi cá lồng, bè trên sông tại một số tỉnh khu vực Trung du miền núi phía Bắc phát triển khá mạnh, góp phần đáng kể trong việc nâng cao sản lượng và tăng thu nhập cho người dân.
Tuy nhiên, theo ông Kim Văn Tiêu, Phó giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, để nuôi cá lồng hiệu quả và bền vững, nông dân cần tuân thủ nguyên tắc “5 cao, 3 thấp”.
Tiềm năng còn bỏ ngỏ
Theo đánh giá của Vụ Nuôi trồng Thủy sản (Tổng Cục Thủy sản), khu vực Trung du miền núi phía Bắc có tiềm năng phát triển nuôi cá trên sông, hồ chứa, hồ thủy điện rất lớn. Tuy nhiên, nghề nuôi cá ở các địa phương vẫn phát triển chậm, chưa tận dụng và phát huy hết tiềm năng của vùng. Số lượng lồng bè và sản lượng nuôi tăng dần qua các năm nhưng sản phẩm nuôi vẫn chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa, chưa tạo thành sản phẩm hàng hóa tập trung phục vụ chế biến và xuất khẩu.
Cụ thể, báo cáo của địa phương, diện tích nuôi cá lồng, bè năm 2017 của các tỉnh khu vực Trung du miền núi phía Bắc khoảng 7.000 lồng (tăng gần 15% so với năm 2016); sản lượng đạt 9.690 tấn (tăng 17% so với năm 2016).
Đối tượng nuôi chủ yếu là cá rô phi, cá diêu hồng, cá ngạnh và một số cá có giá trị cao như cá nheo Mỹ, cá chiên, cá lăng, cá tầm…
Nuôi cá lồng, bè của các tỉnh khu vực Trung du miền núi phía Bắc tuy chưa tạo thành hàng hóa tập trung xuất khẩu nhưng đã mang lại hiệu quả xã hội rất lớn là cung cấp sản phẩm tại chỗ, cải thiện đời sống cho đồng bào miền núi còn nhiều khó khăn, tăng thu nhập cho một bộ phận dân cư, giải quyết việc làm, giảm tệ nạn phá rừng.
Song đại diện Vụ nuôi trồng Thủy sản cũng cho rằng, quy mô nuôi cá lồng bè hiện chưa được đầu tư tương xứng, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào nuôi thâm canh năng suất cao chưa phát huy hết tiềm năng và nguồn lực của vùng.
Đồng thời, chưa cung cấp đủ giống về mặt số lượng và chưa kiểm soát tốt chất lượng giống tại chỗ cho người nuôi. Đặc biệt, vấn đề bảo vệ môi trường nuôi theo mô hình quản lý cộng đồng chưa tốt; vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được coi trọng.
Bà Nguyễn Thị Hà, nguyên Giám đốc Trung tâm Quan trắc và Bệnh thủy sản miền Bắc (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I) cho rằng: Yếu tố môi trường tác động rất lớn tới các yếu tố gây bệnh trên cá lồng. Do vậy, bà con cần sát sao, chú trọng công tác quản lý, chăm sóc trong khâu dinh dưỡng, theo dõi lượng thức ăn, thường xuyên quan sát màu nước, ghi chép sổ nhật ký, đặt tiêu chí “phòng bệnh hơn chữa bệnh” lên hàng đầu.
Môi trường và vốn: Hai yếu tố then chốt
Theo kết quả khảo sát, hầu hết các mô hình nuôi cá lồng công nghệ cao đầu tư rất hoành tráng nhưng đều trong tình trạng thiếu vốn. Do lợi ích của việc đầu tư nuôi cá lồng mang lại lợi nhuận hấp dẫn nên các hộ gia đình rất muốn đầu tư và mở rộng quy mô.
Các hộ nuôi cá lồng thường thiếu vốn và đặc biệt thiếu nhiều vào thời điểm sắp thu hoạch, đây là thời điểm rất cần kinh phí cho đầu tư thức ăn. Tuỳ theo quy mô số lồng nuôi thả của từng hộ mà số vốn đầu tư cũng khác nhau. Vốn đầu tư được dùng trong xây dựng nhà kho, nhà trông coi, làm lồng cá, mua sắm trang thiết bị ban đầu, chi mua giống, thức ăn, thuốc chữa bệnh…
Kết quả điều tra cho thấy, hoạt động vay vốn của các hộ nuôi cá lồng trên sông rất đa dạng: sử dụng vốn tự có (chiếm 30% số hộ nuôi), vay vốn để sản xuất (chiếm 70%), trong đó chủ yếu là vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện, Ngân hàng Chính sách xã hội, vay từ người quen, người thân, từ các đại lý thức ăn, đại lý cá giống.
Vốn là nhân tố quan trọng trong nuôi cá lồng bền vững nhằm tránh bị ép giá, bán non khi thiếu vốn mua thức ăn, hay mua chịu cá giống, mua chịu thức ăn phải chấp nhận giá cao.
Bên cạnh đó, yếu tố môi trường cũng rất quan trọng. Muốn có nguồn nước nuôi cá lồng tốt cần lựa chọn vị trí đặt lồng bè: Xa nguồn chất xả thải (công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt) vì khi nuôi cá lồng với mật độ dầy nếu chất lượng nước sông, hồ không tốt sẽ gây chết cá nuôi rải rác hoặc đồng loạt. Có thể làm cá sinh trưởng kém, tiêu tốn thức ăn khi nuôi, chất lượng sản phẩm không đảm bảo, dịch bệnh dễ dẫn đến thua lỗ và thu nhập không ổn định. Ví dụ: Đợt xả lũ ở đập Thủy điện Hòa Bình năm 2017 đã gây chết cá nuôi lồng ở khu vực hạ lưu đập Thủy điện Hòa Bình.
Hiện nay, các thủy vực nuôi cá nước ngọt (sông, hồ) đều trong tình trạng bị ô nhiễm với nhiều mức độ, từ nhẹ, vừa đến nặng. Ngoại trừ một số sông, hồ khu vực thượng nguồn (Sông Đà, Hồ Hòa Bình, Hồ Sơn La), nhưng những khu vực này lại thường chịu rủi ro do lũ, bão. Khi nuôi cá lồng theo hướng công nghệ cao thường thả cá ở mật độ dày nếu gặp phải việc xả thải của các nhà máy, xí nghiệp hoặc khu công nghiệp không qua xử lý sẽ gây thiệt hại rất lớn cho người nuôi.
Định hướng phát triển bền vững
Nhằm phát triển bền vững mô hình nuôi cá lồng hiệu quả, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sơn La tổ chức Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp với chủ đề: “Phát triển nuôi cá lồng hiệu quả cao, bền vững trên sông và hồ chứa vùng Trung du miền núi phía Bắc”.
Theo đó, Chi cục Thủy sản tỉnh Sơn La cũng nêu rõ định hướng phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng hiệu quả, bền vững: đa dạng hóa đối tượng và phương thức nuôi phù hợp với lợi thế so sánh của từng vùng, địa phương; tổ chức liên kết sản xuất theo chuỗi sản xuất tiêu thụ, từ cung ứng giống, vật tư đầu vào, kỹ thuật nuôi đến tiêu thụ sản phẩm; phát triển nuôi thâm canh ứng dụng công nghệ cao, quy trình thực hành nuôi tốt, an toàn sinh học, bảo vệ môi trường sinh thái, trước hết ưu tiên phát triển các loài thủy sản có lợi thế, giá trị kinh tế cao, có tiềm năng xuất khẩu (cá tầm, cá lăng, cá chiên, cá Anh vũ, ba ba gai,...).
Đồng thời, tiếp tục rà soát các vùng nước tự nhiên theo quy hoạch để bố trí nuôi trồng thủy sản phù hợp với điều kiện cụ thể tại địa phương; tập trung phát triển các loại hình nuôi trồng thủy sản tại các vùng có điều kiện. Trọng tâm là phát triển nuôi cá lồng tại các hồ thủy điện Sơn La, Hòa Bình và thủy điện Nậm Chiến.
Ông Kim Văn Tiêu, Phó giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, đề nghị, đối với cơ quan quản lý: Cần thực hiện tốt công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch trong nuôi cá lồng; tăng cường quản lý con giống và chất lượng con giống, kiểm soát tốt thức ăn, kháng sinh, hóa chất, chế phẩm sinh học và chất xử lý cải tạo môi trường, đặc biệt cần tăng cường công tác quan trắc cảnh báo môi trường; tổ chức lại sản xuất cho bà con nông dân theo hướng gắn kết với các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác xã theo chuỗi; đồng thời quản lý chặt chẽ chất lượng thực phẩm, đảm bảo an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng.
Đối với cơ quan nghiên cứu: Tiếp tục nghiên cứu các mô hình lồng mới, con giống có chất lượng, sạch bệnh, tiến tới kháng bệnh để chuyển giao cho nông dân; Ứng dụng vắc xin trong phòng trị bệnh cá nuôi lồng.
Đối với Trung tâm Khuyến nông các tỉnh: Xây dựng các mô hình khuyến nông về cá lồng, đặc biệt ở những nơi có điều kiện phù hợp phát triển để tạo công ăn việc làm, phát huy lợi thế mặt nước, góp phần đẩy nhanh công cuộc xóa đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới; xây dựng các mô hình nuôi cá hữu cơ, an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm, an toàn môi trường và nuôi công nghệ cao; tổ chức tập huấn, đào tạo, nhân rộng mô hình cá lồng hiệu quả, thiết thực.
Đối với cơ quan thông tấn báo chí: Đẩy mạnh tuyên truyền các mô hình mới, mô hình hiệu quả để bà con nông dân biết học tập và làm theo.
Đối với bà con nông dân: Trước khi nuôi nên tham quan, học hỏi trước các mô hình hiệu quả rồi mới áp dụng, nên nuôi từ nhỏ đến lớn. Đồng thời, phải chuẩn bị kỹ lưỡng các yêu cầu về kỹ thuật và phải luôn chủ động, sáng tạo, say mê trong suốt quá trình nuôi, kết hợp với ghi chép sổ nhật ký đầy đủ để rút kinh nghiệm cho vụ sau.
Ông Kim Văn Tiêu cũng đưa ra một số khuyến cáo cho người nuôi cá lồng như: Thiết kế lồng phù hợp với điều kiện thực tế, khu vực nuôi căn cứ vào dòng chảy, độ trong, đối tượng nuôi, từ đó tính đến vật liệu làm lồng cho hợp lý. Lựa chọn con giống chất lượng tốt, mua ở cơ sở có uy tín, được kiểm dịch trước khi mua, con giống kiểm tra phải khỏe mạnh, đều cỡ, không bệnh tật, không xây xát, và phải có địa chỉ rõ ràng.
Đặc biệt, theo ông Tiêu, bà còn cần thực hiện phòng trị bệnh tổng hợp, tăng sức đề kháng cho cá nuôi bằng cách vệ sinh lồng định kỳ, bổ sung vitamin C, tỏi tươi và chế phẩm sinh học. Quản lý thức ăn và môi trường nuôi thật tốt. Trong quá trình nuôi cần bổ sung chế phẩm sinh học vào thức ăn sẽ giúp tăng trưởng nhanh, hạn chế bệnh về đường tiêu hóa, tăng sức đề kháng, hạn chế dịch bệnh, giảm hệ số thức ăn, hạ giá thành sản phẩm. Theo đó, tổ chức liên kết nuôi theo chuỗi, không nuôi nhỏ lẻ, mạnh mún, tự phát.
“Bà con cần thực hiện 5 cao, 3 thấp: (5 cao: Tốc độ sinh trưởng cao, tỷ lệ sống cao, năng suất cao, hiệu quả cao và số vụ thành công cao; 3 thấp: chi phí thức ăn thấp, giá thành thấp và thiệt hại thấp) để hạ giá thành và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, nhằm nuôi đạt hiệu quả cao và phát triển bền vững”, ông Tiêu nhấn mạnh.
Sơn La có khoảng 8.000ha nuôi trồng thủy sản, trong đó 2.735ha ao, trên 500ha hồ đập công trình thủy lợi lớn nhỏ, gần 500ha ruộng lúa có thể kết hợp nuôi cá. Có 2 con sông lớn là sông Đà và sông Mã, 35 dòng suối lớn nhỏ. Tỉnh còn có hồ thủy điện Hòa Bình và thủy điện Sơn La với diện tích mặt nước thuộc địa phận tỉnh Sơn La là trên 20.000ha (hồ thủy điện Hòa Bình thuộc địa phận Sơn La là 7.900 ha, hồ thủy điện Sơn La là 13.000ha). Điều đó khẳng định Sơn La là tỉnh miền núi có tiềm năng lớn để phát triển thủy sản. |
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.
Không chỉ từ khi Luật Hợp tác xã năm 2023 chính thức có hiệu lực (01/7/2024), mà trước đó, nhiều hợp tác xã (HTX) trên địa bàn Quảng Ngãi đã chủ động mở rộng các dịch vụ phục vụ và phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD) gắn với chuỗi giá trị sản phẩm. Nhờ đó, vai trò của HTX nông nghiệp (NN) đối với kinh tế hộ ngày càng rõ hơn, nhất là khi SX gặp khó khăn: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,…