Hòa Bình hiện có hơn 3.100ha mía tím đang gặp khó khăn trong tiêu thụ, thị trường phụ thuộc hoàn toàn vào tư thương. Bên cạnh đó, xuất khẩu mía tím vừa manh nha đã gặp trở ngại…
Người dân xã Phú Vinh (Tân Lạc) phát triển trồng cây mía tím. Ảnh: Báo Hòa Bình
Cây mía tím là loại cây trồng chủ lực trong cơ cấu phát triển kinh tế của xã Đa Phúc (Yên Thủy). Dẫu vậy, trong những ngày đầu tháng 3/2019, loại cây này vẫn còn hiện hữu bạt ngàn trên các cánh đồng. Toàn xã hiện có khoảng 200 ha diện tích trồng cây mía tím với 100% hộ dân tham gia trồng hàng năm.
Theo đồng chí Chủ tịch UBND xã Đa Phúc Bùi Văn Hoan: Thường vào thời điểm cuối tháng 2, đầu tháng 3 hàng năm, lượng tiêu thụ cây mía tím ít nhất cũng phải được 1/3 hoặc một nửa so với tổng diện tích trồng mía toàn xã. Nhưng đến thời điểm này, sản lượng tiêu thụ mía tím trên địa bàn hầu như không đáng kể, một phần phụ thuộc vào tiêu thụ của các tư thương. Vấn đề đầu ra của cây mía tím đang là nỗi trăn trở của chính quyền và nhân dân trong xã từ 1-2 năm nay.
Trên phạm vi cả tỉnh, Hòa Bình là một trong những tỉnh có diện tích trồng mía lớn nhất miền Bắc. Cây mía tím tập trung chính ở các huyện Tân Lạc, Cao Phong, một phần ở Kim Bôi, Lạc Sơn và Yên Thủy với tổng diện tích trồng khoảng 3.100 ha.
Cây mía tím không chỉ phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của địa phương, dễ trồng nhưng đem lại thu nhập cao gấp 3 - 4 lần so với trồng lúa. Sản lượng trung bình của mía tím trong tỉnh đạt khoảng 5 tạ/ha. Giá bán tại vườn giao động từ 5.000 - 7.000 đồng/cây, cá biệt có vùng đạt 10.000 đồng/cây. Theo tính toán, một ha mía mỗi vụ mang lại cho người dân thu nhập trung bình khoảng 150 - 200 triệu đồng, cao gấp nhiều lần thu nhập trồng lúa.
Dẫu vậy, thị trường tiêu thụ của cây mía tím hiện nay phụ thuộc hoàn toàn vào các thương lái về mua và đưa đi khắp các tỉnh miền Bắc. Do đó, mỗi khi thị trường diễn biến bất lợi, bao khó khăn, thiệt thòi người nông dân trồng mía tím chịu ảnh hưởng lớn nhất.
Theo đồng chí Nguyễn Hồng Yến, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật tỉnh, tình hình thiêu thụ mía tím năm nay đang khá chậm so với những năm trước, bởi hiện nay, các loại hoa quả khác đang rất phát triển, sản lượng cũng tăng mạnh.
Hiện, việc tiêu thụ mía đều phụ thuộc vào tư thương, tại các khu đô thị lớn không còn cảnh bán rong truyền thống như trước đây. Do vậy, bắt buộc thời gian tới, người trồng mía cũng như tư thương cần thay đổi phương thức bán hàng mới mong sản phẩm mía tím đến được tận tay nhiều người tiêu dùng. Bên cạnh đó, người dân cũng cần thay đổi phương thức sản xuất làm sao số lượng cây ít nhưng giá trị cao, đảm bảo độ mềm, độ ngon, ngọt của cây mía. Tỉnh ta cũng đang triển khai thay giống mía tím bằng nuôi cấy mô. Phấn đấu đến năm 2025 sử dụng 100% giống được nhân bằng phương pháp này.
Xuất khẩu mía tím Hòa Bình sang Nhật từ đầu năm đến nay mặc dù rất nhiều cố gắng nhưng phía đối tác chỉ mới đặt hàng khoảng 3 tấn sản phẩm. Tuy vậy, từ 2 tuần nay, việc xuất khẩu mía tím bất ngờ phải dừng lại bởi giá mía tím từ Trung Quốc sang Nhật được cho khá thấp, vì vậy, mía tím Hòa Bình rất khó cạnh tranh.
Tân Sơn đẩy mạnh trồng rừng
Nhằm phủ xanh đất trống, đồi trọc, ngay từ đầu vụ, huyện Tân Sơn đã phối hợp với Hạt kiểm lâm, các xã, thị trấn đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân tích cực trồng rừng với các giống mới đem lại hiệu quả kinh tế cao. Theo kế hoạch năm 2019, toàn huyện trồng trên 2.700ha rừng, trong đó rừng phòng hộ là 20ha, còn lại là rừng sản xuất đã giao khoán cho các hộ dân.
Mùa trồng rừng ở Tân Sơn tập trung chủ yếu vào vụ xuân, bắt đầu từ tháng giêng đến hết tháng ba (âm lịch), khi thời tiết ấm áp, mưa nhiều, thuận tiện cho việc trồng và chăm sóc. Thạch Kiệt là địa phương có diện tích rừng lớn trên 1.800ha, nhằm khai thác các thế mạnh, tiềm năng từ đồi rừng, xã đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu trồng rừng từ các loại cây kém hiệu quả sang trồng quế, keo lai với chu kỳ thu hoạch trên 10 năm. Theo kế hoạch năm nay, toàn xã trồng mới 214ha, thời điểm này các hộ tập trung huy động nhân lực trồng rừng để đảm bảo đúng khung lịch thời vụ.
Gia đình ông Hoàng Quốc Hội ở khu 1, xã Tân Phú đã có trên 10 năm làm nghề ươm giống cây lâm nghiệp cho biết: “Giống là yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất và chất lượng rừng, do đó gia đình tôi đều chú trọng thực hiện đúng các quy trình kỹ thuật trong ươm giống. Hai năm gần đây, một số đã có nhu cầu chuyển sang mua cây quế nên ngoài 20 vạn keo lai tôi ươm thêm 5 vạn quế, chia thành nhiều đợt, bán rải rác ở nhiều thời điểm. Việc chia đợt ươm cây giống sẽ giúp cây đảm bảo đạt đúng tiêu chuẩn không bị quá trà, quá lứa sẽ khó sống. Giá bán mỗi cây giống dao động từ 500 - 700 đồng, dự kiến thu về khoảng 100 triệu đồng”.
Để nâng cao hiệu quả kinh tế từ trồng rừng, hàng năm, UBND huyện phối hợp với Hạt kiểm lâm, các xã, thị trấn mở lớp tập huấn hướng dẫn kỹ thuật ươm giống, trồng rừng theo đúng quy định về mật độ, khoảng cách, thiết kế đồi nương; tuyên truyền tập huấn nghiệp vụ về bảo vệ, phát triển rừng và phổ biến, giáo dục các kiến thức pháp luật về rừng; thực hiện rà soát những diện tích đất trống, khuyến cáo người dân chủ động trồng mới không để đất trống, đất hoang.
Kim Tân: Nuôi dúi hiệu quả cao
Nuôi dúi đã trở thành nghề “hái” ra tiền của một số hộ nông dân ở bản Kim Tân (xã Huy Bắc, Phù Yên, Sơn La), bởi không mất quá nhiều công và chi phí, mà tùy quy mô, các hộ nuôi dúi ở bản có thu nhập từ 200-500 triệu đồng/năm.
Để “thực mục sở thị”, chúng tôi đến mô hình nuôi dúi của gia đình anh Nguyễn Văn Huân, hộ đầu tiên nuôi dúi ở bản Kim Tân. Anh Huân chia sẻ: Nhận thấy nhu cầu sử dụng thịt dúi khá cao, nguồn cung cấp lại hạn chế, tôi quyết định chuyển sang nuôi dúi. Thức ăn cho dúi đơn giản, dúi dễ nuôi, bán được giá. Năm 2014, tôi về Trung tâm Nghiên cứu động vật hoang dã Trung ương đặt mua 10 đôi dúi sinh sản, nay đã phát triển lên 200 con dúi sinh sản; tôi duy trì nuôi từ 300-400 dúi giống, dúi thịt. Giá dúi hiện nay khoảng 400 nghìn đồng/kg. Đối với dúi sinh sản, mỗi đôi bán 1,4 triệu đồng. Riêng năm 2018, nhà tôi xuất bán 600 con dúi giống và 400 con dúi thịt, lãi 500 triệu đồng.
Anh Đỗ Ngọc Thuần, một người nuôi dúi trong bản nói thêm: Nhà tôi nuôi dúi từ năm 2017 với 100 đôi. Đến nay, đàn dúi đã phát triển lên 200 dúi sinh sản và 100 dúi đực. Năm vừa qua, gia đình đã thu 200 triệu đồng từ tiền bán dúi.
Theo các hộ nuôi dúi ở bản, trung bình một con dúi sinh sản đẻ 3 lứa/năm, mỗi lứa 3 con; nuôi 10 tháng dúi nặng khoảng 1,5 kg và có thể xuất bán. Thức ăn của dúi chủ yếu là cỏ voi, thân cây tre, cây mía, ngô hạt..., mỗi ngày chỉ cần cho ăn một lần, chất thải của dúi thu gom làm phân bón cho vườn cây.
Giá dúi thịt cũng chỉ từ 400.000 - 600.000 đồng/kg, phù hợp với thu nhập nên dúi thịt của các hộ chăn nuôi bản Kim Tân luôn trong tình trạng “cháy hàng”. Mô hình nuôi dúi ở bản Kim Tân mở ra thêm hướng đi xóa đói, giảm nghèo, tăng thu nhập cho người dân.
Phòng, chống bệnh dịch tả lợn từ biên giới
Lào Cai có đường biên giới kéo dài với nhiều lối mòn, lối mở. Do vậy, công tác tuần tra, kiểm soát biên giới, đặc biệt trong thời điểm bệnh dịch tả lợn châu Phi đang có dấu hiệu lây lan, phức tạp được các ngành chức năng tăng cường.
Trong vài tháng qua, công tác tuần tra, kiểm soát của Đội Kiểm soát hải quan (Cục Hải quan Lào Cai) đã được tăng cường tối đa. Đặc biệt, lãnh đạo Đội Kiểm soát hải quan trực tiếp tham gia tuần tra, kiểm soát tại các địa bàn trọng điểm, kiên quyết không để động vật, sản phẩm động vật thẩm lậu vào nội địa.
Ông Đinh Đức Cường, Đội trưởng Đội Kiểm soát hải quan cho biết: Trên cơ sở chỉ đạo của Cục Hải quan Lào Cai, đơn vị đã xây dựng kế hoạch tuần tra, kiểm soát, tăng cường trinh sát các khu vực trọng điểm như Pha Long, Nậm Chảy, Na Lốc (huyện Mường Khương), A Mú Sung (huyện Bát Xát), Bản Quẩn, Nậm Sò (xã Bản Phiệt, huyện Bảo Thắng)… để nắm chắc và kịp thời phát hiện các hành vi vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới.
Trong 4 - 5 tháng trở lại đây, lưu lượng tuần tra, kiểm soát được Đội Kiểm soát hải quan chỉ đạo tăng gấp 2 lần so với thời điểm không có bệnh dịch tả lợn châu Phi, cán bộ trinh sát có mặt tại địa bàn nhiều hơn, kể cả ngày lẫn đêm. Từ đầu năm đến nay, Đội Kiểm soát hải quan không phát hiện và bắt giữ bất kỳ một vụ vận chuyển hàng hóa trái phép nào, đặc biệt là động vật, sản phẩm động vật từ biên giới vào nội địa. “Mặc dù không phát hiện, nhưng không vì thế mà chủ quan, lơ là, bởi bệnh dịch đang rất phức tạp, nếu để lọt động vật vào địa bàn thì nguy cơ và thiệt hại cho chăn nuôi trong nước sẽ rất lớn” - ông Cường nói.
Địa bàn quản lý tương đối phức tạp, hoạt động xuất - nhập khẩu, xuất - nhập cảnh sôi động nên nhiệm vụ của Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai càng nặng nề. Ông Nguyễn Đình Quang, Chính trị viên Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai cho biết: Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, đơn vị đã quán triệt tới cán bộ, chiến sỹ, nhất là cán bộ, chiến sỹ làm việc tại cửa khẩu và các tổ công tác biên giới nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ an ninh, chủ quyền biên giới quốc gia, chủ động nắm và phát hiện các hoạt động trái phép, vi phạm pháp luật trên tuyến biên giới do đơn vị phụ trách, đặc biệt là kiểm soát chặt chẽ khu vực biên giới, không để thẩm lậu động vật và sản phẩm động vật từ biên giới vào nội địa.
Đơn vị phối hợp chặt chẽ với cơ quan hải quan tổ chức kiểm tra tất cả hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam, nhất là hàng hóa cư dân biên giới. Tại các khu vực trọng điểm như phố Tèo (phường Lào Cai, thành phố Lào Cai), Bản Quẩn, Nậm Sò… đơn vị đã tăng cường công tác trinh sát, nắm chắc địa bàn, đồng thời phối hợp với chính quyền các xã, phường biên giới tuyên truyền tới người dân, nhất là các hộ chăn nuôi giáp biên về nguy cơ lây nhiễm bệnh dịch tả lợn châu Phi đối với đàn gia súc, không tham gia và không tiếp tay cho các đối tượng buôn lậu động vật và sản phẩm động vật từ biên giới vào nội địa.
Cũng như Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai, thời gian qua, Đồn Biên phòng Bát Xát tăng cường công tác quản lý địa bàn 3 xã: Quang Kim, Bản Qua, Bản Vược với 38 thôn, bản giáp biên; tổ chức tuyên truyền cho người dân về tình hình bệnh dịch tả lợn châu Phi để mọi người thấy được trách nhiệm của mình đối với công tác phòng, chống bệnh dịch tả lợn châu Phi, bảo vệ đàn vật nuôi cũng như thông tin kịp thời cho cơ quan chức năng khi phát hiện hành vi vận chuyển động vật và sản phẩm động vật từ biên giới vào nội địa. “Đơn vị đang tiếp tục tăng cường tuần tra, kiểm soát khu vực biên giới được giao quản lý, đảm bảo không để động vật và sản phẩm động vật thẩm lậu vào nội địa” - ông Đặng Văn Dũng, Chính trị viên Đồn Biên phòng Bát Xát cho biết.
Hiện nay, các lực lượng quản lý biên giới tiếp tục tăng cường tuần tra, kiểm soát, đồng thời triển khai đồng bộ các giải pháp chống buôn lậu động vật và sản phẩm động vật nhằm ngăn chặn nguy cơ lây lan bệnh dịch tả lợn châu Phi vào nước ta.
Tín hiệu vui từ mô hình trồng cây lê vàng
Cây lê vàng bén rễ đất xã Háng Lìa (huyện Ðiện Biên Ðông, Điện Biên) từ năm 2012, 2013, khi Trường PTDTBT THCS Tân Lập, xã Háng Lìa triển khai trồng thử nghiệm gần 100 gốc lê vàng trong khuôn viên. Sau một thời gian chăm sóc, thu hoạch, nhận thấy hiệu quả của giống cây này, nhiều hộ dân 2 xã: Xa Dung và Háng Lìa đến trường học hỏi kinh nghiệm, đưa giống lê vàng về trồng, với mong muốn sẽ mang lại thu nhập ổn định.
Học sinh Trường PTDTBT THCS Tân Lập, xã Háng Lìa chăm sóc cây lê vàng trong khuôn viên trường. Ảnh: Quang Hưng
Chúng tôi đến Trường PTDTBT THCS Xa Dung, xã Xa Dung (huyện Ðiện Biên Ðông) sau khi Trường vừa phát hiện có mạch nước tự nhiên ở gần trường. Thầy giáo Thái Khắc Hùng, Hiệu trưởng Trường PTDTBT THCS Xa Dung chia sẻ: “Trường vừa mới triển khai trồng gần 90 gốc lê vàng trong khuôn viên nên khi phát hiện ra nguồn nước này giáo viên rất phấn khởi. Dù cây lê vàng dễ trồng, ưa thời tiết mát mẻ, cách chăm sóc đơn giản, không mất nhiều công sức, ít sâu bệnh nhưng khi mới trồng cần phải tưới nước thường xuyên để cây sống, còn khi cây đã lớn thì không cần phải tưới nhiều. Có nguồn nước này, Trường có thể yên tâm mở rộng diện tích trồng cây lê vàng”.
Thầy giáo Thái Khắc Hùng cũng là người tiên phong trong việc triển khai trồng cây lê vàng ở Trường PTDTBT THCS Tân Lập, xã Háng Lìa. Chính vì nhận thấy hiệu quả của giống cây này nên khi chuyển về làm cán bộ quản lý ở Trường PTDTBT THCS Xa Dung, thầy Hùng lại tiếp tục nhân rộng mô hình trồng lê vàng ở ngôi trường này.
Theo thầy Hùng, cây lê vàng rất thích hợp với thổ nhưỡng, khí hậu ở 2 xã: Xa Dung và Háng Lìa, vì cây lê vàng ưa lạnh. Ðiều đó có thể nhận thấy rất rõ ràng, bởi qua 6 năm trồng và chăm sóc, những gốc lê vàng ở xã Háng Lìa đã cho thu hoạch với chất lượng quả thơm, ngon, mọng nước mà lại rất dễ trồng.
Nói về việc phát triển cây lê vàng trên địa bàn xã, ông Vàng A Dia, Chủ tịch UBND xã Háng Lìa cho biết: Trường PTDTBT THCS Tân Lập đưa cây lê vào trồng trong khuôn viên nhà trường chỉ sau 2 - 3 năm đã cho thu hoạch quả với năng suất đạt gần 50kg/cây. Nhận thấy hiệu quả bước đầu của giống cây này, năm 2018 xã Háng Lìa đã cử cán bộ vào nhà trường để học hỏi kinh nghiệm trồng và chăm sóc giống cây này. Ðồng thời, đề nghị Trạm Khuyến nông - Khuyến ngư huyện hỗ trợ bà con để nhân rộng diện tích trồng cây lê vàng trên địa bàn. Hy vọng với tiềm năng thế mạnh về thời tiết khí hậu và đất đai, việc phát triển cây lê vàng sẽ là tiền đề để phát triển kinh tế của địa phương.
Chủ tịch UBND xã Háng Lìa Vàng A Dia cho biết thêm: Chính quyền xã xác định việc mở rộng diện tích trồng cây lê vàng trong thời gian tới sẽ là tiền đề để xây dựng vùng sản xuất cây ăn quả hàng hóa, góp phần thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng, khai thác tiềm năng lợi thế diện tích sẵn có của địa phương, tạo ra sản phẩm chất lượng tốt, sạch, mang lại đặc trưng riêng của xã. Từ đó, giúp người dân có hướng đi mới trong phát triển sản xuất nông nghiệp, từng bước nâng cao đời sống của bà con.
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.
Không chỉ từ khi Luật Hợp tác xã năm 2023 chính thức có hiệu lực (01/7/2024), mà trước đó, nhiều hợp tác xã (HTX) trên địa bàn Quảng Ngãi đã chủ động mở rộng các dịch vụ phục vụ và phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD) gắn với chuỗi giá trị sản phẩm. Nhờ đó, vai trò của HTX nông nghiệp (NN) đối với kinh tế hộ ngày càng rõ hơn, nhất là khi SX gặp khó khăn: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,…