Miền Tây Nghệ An có lợi thế về phát triển chăn nuôi trâu, bò, do đất rộng, nguồn thức ăn tự nhiên khá dồi dào, khí hậu thích hợp.
Từ chăn nuôi nhỏ lẻ, nay người dân đã biết đầu tư chăn nuôi theo hướng gia trại, trang trại, rút ngắn chu kỳ sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, mở ra hướng thoát nghèo bền vững.
Thay đổi tập quán chăn nuôi, nâng cao hiệu quả kinh tế
Trước đây, việc chăn nuôi trâu, bò chủ yếu được người dân phát triển ở quy mô hộ gia đình, nguồn thức ăn hầu hết dựa vào nguồn cỏ tự nhiên. Người dân nuôi trâu, bò chủ yếu tận dụng sức kéo chứ chưa phát triển chăn nuôi đại gia súc theo hướng hàng hóa, vì vậy, quy mô rất hạn chế.
Trước thực trạng đó, huyện Tương Dương đã có nhiều cơ chế, chính sách, đẩy mạnh tuyên truyền vận động người dân chuyển đổi hình thức chăn nuôi trâu, bò từ chăn thả tự do sang bán chăn thả hoặc nuôi nhốt, vỗ béo cho phù hợp với điều kiện sản xuất. Nhờ sự tuyên truyền của chính quyền và ngành chức năng địa phương mà người dân đã thay đổi phương thức sản xuất. Trâu, bò được nuôi bằng nhiều hình thức khác nhau. Chăn nuôi trâu, bò vỗ béo đã trở thành nguồn thu nhập chính của người dân.
Xã Tam Quang (Tương Dương) hiện có khá nhiều người nuôi trâu, bò vỗ béo mang lại hiệu quả kinh tế cao và thu nhập ổn định. Anh Nguyễn Ngọc ở bản Bãi Sở (xã Tam Quang) cho biết: Mỗi năm gia đình bán 2-3 lứa, mỗi lứa 6-7 con trâu, bò vỗ béo, thu lãi 120-150 triệu đồng.
Nuôi trâu, bò vỗ béo không quá vất vả, tận dụng ven đồi trồng cỏ voi, chuối làm thức ăn. Về mùa đông, tích trữ thêm rơm, cỏ, lá ngô và ủ chua làm thức ăn cho trâu, bò. Chất thải từ chăn nuôi được tận dụng ủ làm phân bón hữu cơ cho các loại cây trong vườn, trên đồi...
Bản Bãi Sở có trên 70 hộ nuôi trâu, bò nhốt chuồng vỗ béo, hộ ít nuôi 2-3 con, nhiều 8-10 con. Mô hình đã giúp bà con có thu nhập 120-150 triệu đồng/năm, như hộ ông Nguyễn Ngọc nuôi 10 con trâu, bò; ông Trần Văn Đô nuôi 8 con trâu, bò …
Bà Kha Thị Hiền, Chủ tịch UBND xã Tam Quang, cho biết thêm: Hiện nay, toàn xã có 4.500 con trâu, bò, trong đó có khoảng 120 hộ dân nuôi trâu, bò nhốt vỗ béo. Để đảm bảo nguồn thức ăn cho trâu, bò, xã đã quy hoạch trồng được trên 49 ha cỏ voi ở các bãi đất và ven khe, suối. Thực tế cho thấy, mô hình nuôi trâu, bò vỗ béo theo hình thức nhốt chuồng ở Tam Quang đem lại hiệu quả kinh tế cao và trở thành một nghề của người dân nơi đây.
Phong trào nuôi trâu, bò nhốt vỗ béo ở xã Tam Thái cũng mang lại hiệu quả cao. Mô hình được phát triển 5 năm trở lại đây, ban đầu chỉ có 2-3 hộ nuôi vỗ béo. Sau khi thấy được hiệu quả mang lại, có nhiều hộ đã học theo, nhân rộng mô hình, đến nay toàn xã có trên 50 mô hình nuôi trâu, bò vỗ béo, quy mô lớn 10-15 con, quy mô nhỏ 3-5 con.
Như hộ gia đình anh Vang Văn Mươn ở bản Can (xã Tam Thái) từ năm 2020 đến nay đầu tư trên 100 triệu đồng làm chuồng trại nuôi bò nhốt quy mô 15 con, mỗi năm thu lãi trên 150 triệu đồng. Anh Lang Văn Mươn chia sẻ: Trước đây gia đình chỉ nuôi bò truyền thống theo kiểu thả rông, nên hay bị bệnh dịch, nay nuôi bò nhốt mang lại lợi nhuận cao. Nguồn thức ăn cho trâu, bò chủ yếu tận dụng trồng cỏ, chuối quanh khe, suối, đồi núi.
Hướng đi chiến lược
Đề án phát triển cây và con ở miền Tây Nghệ An là hướng đi đúng, nhất là trong giai đoạn hiện nay, vừa tạo sinh kế cho người dân, vừa góp phần giải quyết nhu cầu nguồn thực phẩm cho xã hội, nâng cao đời sống cho người dân.
Theo thống kê, liên tiếp trong nhiều năm, đàn trâu, bò của huyện Tương Dương đều có sự gia tăng về số lượng. Tính đến thời điểm này, toàn huyện có trên 55.000 con trâu, bò, trong đó trên 400 hộ dân chăn nuôi bò vỗ béo mang lại hiệu quả tại các xã Tam Quang, Tam Thái, Tam Đình, Yên Thắng, Nga My… Chưa kể hàng chục hộ người Mông ở bản Lưu Thông, xã Lưu Kiền và 2 bản Huồi Cọ, Huồi Măn, xã Nhôn Mai cũng đầu tư nuôi trâu, bò vỗ béo, bước đầu cho hiệu quả khá cao.
Ông Lô Khăm Kha, Trưởng phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Tương Dương, cho biết: Xác định phát triển chăn nuôi đại gia súc là hướng đi đúng đắn, đặc biệt là chăn nuôi trâu, bò, những năm qua, huyện đã thực hiện các giải pháp như: Chuyển đổi một số diện tích đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp hiệu quả thấp, đất cao cưỡng, bạc màu; khai hoang, cải tạo đất ven sông, ven suối sang trồng cỏ voi thâm canh phục vụ chăn nuôi. Hiện toàn huyện có trên 200 ha cỏ voi, chủ động nguồn thức ăn cho trâu, bò. Xây dựng chuồng trại phù hợp với phương thức chăn nuôi vỗ béo trâu, bò, chú trọng tìm đầu ra cho sản phẩm.
UBND huyện Tương Dương cũng xác định, chăn nuôi đại gia súc là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy, thời gian tới, huyện tiếp tục tuyên truyền, vận động bà con nhân rộng mô hình chăn nuôi trâu, bò vỗ béo, tranh thủ nguồn vốn từ các chương trình, dự án để hỗ trợ người dân đầu tư mở rộng chuồng trại, tăng thêm số lượng đàn vật nuôi và nhân rộng mô hình nuôi trâu, bò vỗ béo. Chú trọng áp dụng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật để người dân nâng cao hiệu quả chăn nuôi, nhất là chất lượng con giống, giúp bà con làm giàu ngay tại quê hương.
Nghệ An chú trọng phát triển chăn nuôi trâu, bò ở các huyện miền núi và đã có nhiều cơ chế chính sách hỗ trợ về con giống, vốn, thú y; trong đó ưu tiên phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại. Phấn đấu đến hết năm nay, tổng đàn trâu, bò trên địa bàn đạt 780.000 con, đưa tỉ trọng chăn nuôi trâu, bò trong ngành chăn nuôi chiếm 22 - 25%.
Mặc dù đã có sự phát triển nhanh chóng về số lượng nhưng hiện nay việc tiêu thụ trâu, bò vẫn phụ thuộc vào thương lái mà chưa có liên kết với các cơ sở chế biến. Bên cạnh đó, người dân vẫn nuôi theo kiểu tự phát chứ chưa có quy hoạch bài bản.
Để chăn nuôi phát triển ổn định, các địa phương cần có chính sách hỗ trợ người dân phát triển đàn gia súc cũng như chủ động tìm đầu ra. Thành lập tổ hợp tác, liên kết trong chăn nuôi để tránh bị ép giá, kết nối tiêu thụ để không bí đầu ra. Mặt khác, để nâng cao giá trị sản phẩm, các địa phương cần xúc tiến làm các sản phẩm OCOP từ thịt trâu, bò như: thịt trâu gác bếp, bò giàng…, qua đó, nâng cao thu nhập cho người chăn nuôi.
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.