Nhờ phát triển bưởi, Phú Thọ đã khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh về đất đai, khí hậu, hình thành vùng cây ăn quả, tạo ra sản phẩm hàng hóa tập trung.
Tuy nhiên, để cây bưởi mang lại hiệu quả kinh tế cao, bền vững, cần sự chung tay của các cấp, các ngành với các giải pháp đồng bộ.
Trồng bưởi VietGAP
Phú Thọ hiện có trên 4.300ha bưởi, trong đó có khoảng 2.700ha cho thu hoạch. Năm 2019, năng suất bưởi đạt gần 11,6 tấn/ha, sản lượng trên 30.000 tấn.
Tỉnh đã triển khai một số dự án khoa học công nghệ để nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật canh tác nhằm cải tạo, phục hồi, nâng cao chất lượng mẫu mã bưởi quả đặc sản, xây dựng thương hiệu. Do đó, trình độ kỹ thuật thâm canh bưởi của người dân được nâng lên; xây dựng được mô hình sản xuất theo hướng hàng hóa, trong đó có một số mô hình ứng dụng công nghệ cao.
Xác định bưởi là một trong những cây trồng chủ lực, từ năm 2016 đến nay, Phú Thọ huy động trên 20 tỷ đồng phát triển cây bưởi đặc sản Đoan Hùng, bưởi Diễn.
Phú Thọ có 147 vùng sản xuất bưởi tập trung với diện tích trên 700ha; 33 trang trại, 5 hợp tác xã, 1 tổ hợp tác sản xuất bưởi với hơn 200ha. Các địa phương đều áp dụng trồng bưởi theo quy trình VietGAP, hữu cơ… nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
Quy mô nhỏ lẻ
Tuy đạt được kết quả quan trọng, song việc phát triển cây bưởi ở Phú Thọ còn một số hạn chế khiến hiệu quả chưa xứng với tiềm năng. Trước hết, sản xuất bưởi chủ yếu ở quy mô nhỏ, phân tán, diện tích vùng trồng tập trung thấp.
Một bộ phận nông dân chưa chú trọng đầu tư thâm canh, chưa sản xuất hàng hóa, chưa quan tâm đến xây dựng và phát triển thương hiệu. Diện tích trồng mới chủ yếu ở quy mô nông hộ, thiếu mô hình sản xuất lớn có tính liên kết giữa các hộ trồng bưởi trong sản xuất và kinh doanh. Mức độ đầu tư cho cây bưởi chưa đúng mức so với cả chu trình phát triển của cây, việc ứng dụng kỹ thuật chưa đồng bộ.
Một số diện tích trồng tự phát, không theo quy hoạch nên không chủ động được nguồn nước, không có điều kiện thuận lợi để chăm sóc; chất đất không phù hợp khiến người làm vườn phải tăng chi phí sản xuất, mất nhiều công sức, đối diện với nhiều rủi ro.
Đây là nguyên nhân khiến mẫu mã bưởi còn nhiều điểm hạn chế, chất lượng quả không đồng đều làm giảm giá trị thương mại, gây khó khăn trong hoạt động kinh doanh bưởi quả.
Còn khó khăn trong thu hút doanh nghiệp đầu tư sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ bưởi; việc xây dựng thương hiệu và quản lý thương hiệu bưởi đặc sản còn hạn chế.
Tỷ lệ cây giống sạch bệnh, chất lượng tốt đưa vào sản xuất đại trà còn thấp; cây giống sử dụng chưa được kiểm soát chặt chẽ về nguồn gốc; cơ sở sản xuất giống trên địa bàn còn thiếu và chưa đáp ứng theo quy định.
Cần chú trọng xây dựng thương hiệu
Huyện Đoan Hùng xác định bưởi là cây trồng chủ lực với sản lượng năm 2019 ước đạt 20.000 tấn, tăng 25% so với năm 2018, giá trị sản phẩm trên 300 tỷ đồng. Tổng diện tích bưởi hiện có trên địa bàn huyện đạt trên 2.450ha, trong đó có 1.600ha cho thu hoạch. Thời gian qua, huyện đã xây dựng một số mô hình đầu tư, thâm canh, hỗ trợ bao bì, tem truy xuất nguồn gốc, thí điểm ký kết tiêu thụ sản phẩm.
Năm 2019, sản phẩm bưởi đặc sản tiếp tục được vinh danh là một trong 75 thương hiệu vàng nông nghiệp Việt Nam.
Việc phát triển thương hiệu bưởi đặc sản Đoan Hùng và quản lý chất lượng bưởi quả còn gặp khó do cách thu mua của thương lái từ khi quả còn non, dẫn đến nhiều chủ vườn chưa có nhu cầu sử dụng tem nhãn, quả bưởi không được dán tem và khó quản lý khi đưa ra thị trường. Sản lượng bưởi từ cây nhiều năm tuổi còn thấp nên còn tình trạng đẩy giá sản phẩm lên cao và thương lái có sự trà trộn làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và thương hiệu bưởi Đoan Hùng.
Ông Nguyễn Hoàng Minh, Trưởng phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Đoan Hùng, cho biết: Huyện khuyến khích nông dân liên kết thành lập tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất, kinh doanh bưởi để tăng cường năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh. Trên cơ sở đó sẽ tạo điều kiện tốt nhất để doanh nghiệp tiêu thụ gắn với vùng sản xuất theo hướng ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.
Đồng thời tích cực tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm bưởi tại các hội chợ, củng cố, tiếp tục phát triển các điểm, các kênh phân phối chính thức và uy tín như cửa hàng giới thiệu sản phẩm, siêu thị...
Thực hiện các giải pháp đồng bộ
Để cây bưởi phát triển thành ngành hàng chủ lực, hiệu quả cao và bền vững, Phú Thọ cần phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ.
Trước hết, cần tăng cường công tác khuyến nông, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất theo hướng công nghệ cao, hữu cơ, VietGAP vào trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho cây bưởi. Tập trung chỉ đạo tổ chức sản xuất bưởi theo hướng hàng hóa, hiện đại; sản xuất theo chuỗi liên kết từ trồng - bảo quản - chế biến - tiêu thụ; đẩy mạnh phát triển sản xuất theo hướng trang trại, gia trại quy mô thích hợp.
Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng nông - lâm sản và thủy sản Phú Thọ, cho biết: Phát triển cây bưởi thành vùng hàng hóa lớn, sản xuất gắn với chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng, truy xuất nguồn gốc, xây dựng thương hiệu, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị là xu hướng tất yếu. Việc triển khai truy xuất nguồn gốc sản phẩm bằng tem điện tử, hình thành các cơ sở sản xuất, kinh doanh có uy tín là những nhân tố để tạo dựng thương hiệu, nâng sức cạnh tranh của sản phẩm bưởi.
Đối với cây bưởi, khâu giống, kỹ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi cây có chu kỳ sinh trưởng dài, sau nhiều năm chăm sóc mới cho thu hoạch. Việc chăm sóc đúng quy trình để có sản phẩm chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm đặt ra cho nông hộ những yêu cầu cao nhưng đây cũng là tiền đề để cây bưởi phát triển bền vững và là yếu tố cơ bản xây dựng thương hiệu bưởi địa phương.
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.
Không chỉ từ khi Luật Hợp tác xã năm 2023 chính thức có hiệu lực (01/7/2024), mà trước đó, nhiều hợp tác xã (HTX) trên địa bàn Quảng Ngãi đã chủ động mở rộng các dịch vụ phục vụ và phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD) gắn với chuỗi giá trị sản phẩm. Nhờ đó, vai trò của HTX nông nghiệp (NN) đối với kinh tế hộ ngày càng rõ hơn, nhất là khi SX gặp khó khăn: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,…