Tại Hội nghị lần thứ 3 về phát triển Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng biến đổi khí hậu, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chỉ rõ quan điểm chiến lược tiếp cận mới đối với ĐBSCL qua 8 chữ “G” bổ sung cho Nghị quyết 120 ban hành hơn 3 năm trước.
“Cần phải có quan điểm chiến lược tiếp cận mới. Trong viễn thông có 5G, tôi xin đưa ra 8G để vận dụng trong thực tiễn ĐBSCL. Nội dung 8G mà tôi nói chưa có trong Nghị quyết số 120/NQ-CP mà Chính phủ đã ban hành, tôi đề nghị cơ quan thường trực - Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà tiếp thu, bổ sung Nghị quyết 120”, Thủ tướng nói.
“8G” chiến lược tiếp cận mới
Nói về các kết quả trong đầu tư phát triển ĐBSCL thời gian gần đây, Thủ tướng lưu ý, “không được kể công mà kết quả này hay là nhiệm vụ tới là trách nhiệm của Chính phủ, của cán bộ, công chức, của Thành ủy, của Tỉnh ủy, của UBND các tỉnh, thành phố”. Chúng ta biết các kết quả đó là đáng mừng nhưng kết quả đó chỉ là bước đầu quan trọng, còn nhiều việc phải làm.
Trong 8 chữ “G”, Thủ tướng nhấn mạnh chữ “G” đầu tiên là “Giao”. Đó là phải dành nguồn lực và tập trung ưu tiên phát triển hệ thống giao thông, thủy lợi và cơ sở hạ tầng gắn với tầm nhìn chung của toàn vùng ĐBSCL, nhất là hệ thống đường cao tốc, tạo sự kết nối thuận tiện, chi phí thấp, thúc đẩy giao thương, mở mang kinh tế cho người dân, làm cơ sở ứng phó hiệu quả với thách thức của biến đổi khí hậu.
Chúng ta đưa ra Nghị quyết 120 với tinh thần là thuận thiên, là thích ứng nhưng “không phải chúng ta giao cho trời đất, tác động thế nào cũng được mà cái chính là những công trình giao thông, thủy lợi cần phải được quan tâm, những nơi sạt lở, gây mất mát cho đồng bào chúng ta thì cần phải được quan tâm”.
Chữ G thứ hai là Giáo. Đó là giáo dục và phát triển nguồn nhân lực. Có thể nói giáo dục là chìa khóa vàng của phát triển bền vững. Đối với ĐBSCL, giáo dục vừa là đáp án cho bài toán phát triển ngắn hạn lẫn dài hạn. Hệ thống giáo dục của ĐBSCL cần chú trọng nội hàm của mô thức “giáo dục, giáo dục và giáo dục”. Cụ thể là giáo dục cơ bản, đảm bảo tất cả mọi người, đặc biệt là trẻ em, cần phải được học hết bậc phổ thông, không được phép để trẻ em nào không được đến trường vì không có điều kiện tài chính. Giáo dục thứ hai là giáo dục nghề, đảm bảo cho người dân có cơ hội tiếp cận việc làm cơ bản. Thứ ba là giáo dục trình độ cao, là cơ sở để chuyển đổi lên bậc nấc cao hơn về năng suất và thu nhập, bắt kịp nhóm thu nhập cao của cả nước. Thủ tướng cho rằng, vấn đề giáo dục đào tạo chưa được nổi bật và sắc nét trong Nghị quyết 120, đề nghị bổ sung một số nội dung trọng tâm về vấn đề này vào Nghị quyết.
Chữ G thứ 3 là “Giang” (sông). Kinh tế và sinh kế của người dân nơi đây gắn liền với các con sông như Tiền Giang, Hậu Giang và nhiều con sông khác. Chiến lược phát triển cần tận dụng được lợi thế, phát huy vai trò của các con sông để phát triển kinh tế nông nghiệp, lúa gạo, trái cây, thủy sản, giao thông và đặc biệt là hệ thống logistic đường sông thì mới thành công. Không có dòng sông, con rạch không phải là văn hóa của miền Tây. “Nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ”, vai trò của các con sông là yếu tố không thể không nói tới khi nhắc về ĐBSCL. Vấn đề này vẫn còn mờ nhạt trong Nghị quyết 120, Thủ tướng đề nghị nghiên cứu khái niệm “kinh tế sông”.
Chữ G thứ tư là “Gắn”. Đó là gắn kết giữa Trung ương với địa phương, nhà nước với thị trường, người dân và doanh nghiệp, giữa trong nước và tổ chức, nhà đầu tư quốc tế, đặc biệt là gắn liên kết vùng ĐBSCL để cùng phát triển bền vững.
Chữ G thứ 5 là “Giàu”. Đó là tích cực thu hút được những người giàu, người khá giả, doanh nghiệp có tiềm lực đến đầu tư phát triển kinh tế địa phương. Để có nguồn lực phát triển cần phải xây tổ đón ‘đại bàng”. Muốn vậy, cần phải cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và mỗi địa phương.
Chữ G thứ 6 là “Giỏi”, là tích cực thu hút những tài năng đóng góp chất xám, trí tuệ cho sự phát triển ĐBSCL. Do đó, cần có chính sách chung thu hút giới tài năng trở về hoặc đến đóng góp vì sự phát triển của vùng đất Chín Rồng này. Vấn đề này vẫn chưa được đề cập trong Nghị quyết 120, đây là một thiếu sót, Thủ tướng đề nghị phải phát huy vai trò, thu hút tốt hơn nữa những tài năng đến với ĐBSCL.
Chữ G thứ 7 là “Già”. ĐBSCL có mức độ dân số già hóa cao hơn bình quân cả nước. Đây là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương về mặt kinh tế, xã hội lẫn môi trường. Do đó, ĐBSCL cần có chính sách chủ động cho vấn đề dân số già hóa và hình thành mạng lưới an sinh xã hội tốt hơn để nâng đỡ phúc lợi cho người già và những người yếu thế. Sau 3 năm triển khai Nghị quyết 120, chúng ta thấy vấn đề già hóa dân số đang nổi lên nhưng nội hàm này vẫn còn thiếu trong Nghị quyết, cần được bổ sung, hoàn thiện.
Chữ G thứ 8 là “Giới”, tức là thúc đẩy bình đẳng giới, tiếp cận cơ hội việc làm và phát huy vai trò, vị trí của người phụ nữ. Thủ tướng đề nghị đưa vấn đề này vào Nghị quyết 120.
“Biến đổi khí hậu suy cho cùng cũng chỉ là những biến đổi mang tính ngoại sinh, một khi chúng ta vẫn giữ được cội nguồn văn hóa và tinh thần dân tộc, những yếu tố mang sức mạnh nội sinh, chúng ta sẽ phát triển giàu mạnh trên mảnh đất thiêng liêng kế thừa từ cha ông”, Thủ tướng nêu rõ.
Nhấn mạnh triết lý phát triển thuận thiên, nhưng Thủ tướng cho rằng, nội hàm của nó không phải là cam chịu, chấp nhận số phận hay sự sắp đặt của tạo hóa. Biến đổi khí hậu không phải là do tự nhiên tạo ra mà chủ yếu là hệ quả của các hoạt động của con người. Do đó, chúng ta phải nhận thức đúng để có các giải pháp và hành động phù hợp.
Nhận xét về nội dung chiến lược 8 chữ G mà Thủ tướng nêu, nhiều chuyên gia cho rằng, làm tốt những điều đó, ĐBSCL sẽ phát triển xanh về mọi mặt, cả kinh tế, môi trường, văn hóa và xã hội.
Chuyển hướng thuận thiên đúng hướng, hiệu quả
Hạn mặn khốc liệt là tình huống thiên tai, song con người có thể chủ động thích ứng, giảm nhẹ thiệt hại, thậm chí khai thác điều kiện sinh thái mặn- lợ. Tư duy đó đã được thể hiện trong Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về việc ĐBSCL chủ động thích ứng biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, cần được hiện thực hóa trong chương trình, kế hoạch phát triển của địa phương, huy động sự tham gia của doanh nghiệp và người dân.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp cho rằng, phải tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp và thực hiện đúng quy hoạch sản xuất, đúng khuyến cáo từ các cơ quan chức năng, trong đó phải hướng đến: nước mặn, nước ngọt, nước lợ đều là tài nguyên. Nếu dựa theo nguyên tắc thuận thiên, thích nghi có kiểm soát thì khái niệm về xâm nhập mặn cũng cần được xem lại. Đúng hơn là phải khống chế ranh nước mặn, nước ngọt và nước lợ. Một số công trình thủy lợi cần tính toán lại để điều tiết chỗ nào cần nước mặn có nước mặn, chỗ nào cần nước ngọt thì có ngọt chứ không chỉ đơn thuần là ngăn mặn, giữ ngọt.
Báo cáo về tình hình thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết, theo nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết, Bộ Nông nghiệp và PTNT ưu tiên tập trung tổ chức triển khai 4 lĩnh vực then chốt: Xây dựng Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu gắn với xây dựng nông thôn mới vùng ĐBSCL; Phát triển thủy lợi vùng ĐBSCL; Phòng, chống xói lở bờ sông, bờ biển, phòng chống thiên tai; Nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu của vùng.
Bộ đã phối hợp với 13 tỉnh, thành ĐBSCL xây dựng xong đề án, chương trình cho các lĩnh vực này, được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn, đang tập trung thực hiện.
Ngoài các nội dung trong Báo cáo, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường phân tích thêm một số các yếu tố thực tế mà ĐBSCL phải đối mặt. Nghị quyết 120 nêu rõ tinh thần thuận thiên để tổ chức đời sống và sản xuất; biến nguy thành cơ cho phát triển, tập trung các nguồn lực từ phía Nhà nước, doanh nghiệp, người dân.
Ông Cường khẳng định, cơ cấu nông nghiệp đã chuyển dịch tích cực, nếu trước kia chúng ta xác định các sản phẩm trụ cột của ĐBSCL gồm “lúa gạo, thủy sản, trái cây” thì vừa qua, để thích ứng với biến đổi khí hậu, chúng ta phải khai thác thế mạnh theo ưu tiên “thủy sản, trái cây, lúa gạo”.
Trước Nghị quyết 120, trong 3,2 triệu hecta đất nông nghiệp của vùng, có 1,82 triệu hecta đất lúa, 860 nghìn hecta thủy sản, 385 nghìn hecta cây ăn trái. Sau Nghị quyết, diện tích trồng trái cây tăng lên 450 nghìn hecta, thủy sản đã lên trên 900 nghìn hecta, diện tích lúa giảm còn 1,7 triệu hecta, diện tích lúa 3 vụ cũng giảm.
Bộ trưởng nhắc tới con số, năm 2016, xuất khẩu nông sản của toàn vùng đạt 7 tỷ USD, nhưng năm 2020 đã là 8,8 tỷ USD, cho thấy việc chuyển hướng thuận thiên không những đúng hướng mà còn hiệu quả. Cấp hộ, cấp doanh nghiệp chuyển động, 13 tỉnh, thành chỉ đạo rất quyết liệt.
Theo ông Cường, Nghị quyết 120 ban hành trong bối cảnh cực kỳ khó khăn về nguồn lực nhưng Chính phủ đã tập trung cao độ, như bố trí 10 nghìn tỷ đồng để xử lý 119km bờ biển và một số khu vực ven sông, một số công nghệ mới nhất được đưa vào sử dụng.
Về thủy lợi, đã kết hợp giữa giải pháp cứng và mềm, chỗ nào đủ ngọt thì trồng lúa, vùng nước lợ mặn thì nuôi trồng thủy sản trên cơ sở hệ thống thủy lợi được chăm lo. Với 28 nghìn tỷ đồng đầu tư cho thủy lợi trong vùng, hàng loạt công trình lớn chỉ trong 3 năm qua đã được đưa vào sử dụng, 300 nghìn hecta đất nông nghiệp được chủ động nguồn nước từ các công trình này, chưa kể một loạt các công trình của địa phương.
“Chính phủ, Thường trực Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cực kỳ quyết liệt, chưa có bao giờ bước vào mùa khô mà Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo xử lý như nhiệm kỳ này. Đặc biệt, tại 13 tỉnh, thành, bà con nông dân và cộng đồng doanh nghiệp đã tham gia hiệu quả vào Nghị quyết”, Bộ trưởng Cường nói.
Tuy nhiên, thách thức tới đây sẽ còn gian nan hơn. Bộ trưởng kiến nghị, sắp tới, cần cả hệ thống chính trị tập trung thực hiện các nhiệm vụ cho ĐBSCL. Ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục thực hiện Nghị quyết 120 một cách hiệu quả.
Hiện thực hóa chiến lược phát triển thủy sản
Khái niệm “Nông nghiệp thuận thiên” đang được hiện thực hóa tại ĐBSCL, khi hàng loạt mô hình nuôi trồng thủy sản thích ứng với điều kiện hạn hán, xâm nhập mặn ra đời.
Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và PTNT, các địa phương đã nhận thức rõ thứ tự ưu tiên trong sản xuất nông nghiệp của các tỉnh miền Tây Nam Bộ giáp biển là thủy sản – trái cây rồi mới đến lúa.
Thủ tướng Chính phủ cũng vừa phê duyệt trong Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, đến năm 2030, phát triển thủy sản thành ngành kinh tế quan trọng của quốc gia, sản xuất hàng hóa lớn gắn với công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển bền vững và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; có cơ cấu và hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; có thương hiệu uy tín, khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
Theo Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, phấn đấu đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất thủy sản đạt 3 - 4%/năm. Tổng sản lượng thủy sản sản xuất trong nước đạt 9,8 triệu tấn (trong đó sản lượng nuôi trồng thủy sản 7,0 triệu tấn, sản lượng khai thác thủy sản 2,8 triệu tấn). Giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 14 - 16 tỷ USD.
Để đạt được mục tiêu này, còn rất nhiều việc phải làm, trong đó không thể thiếu yếu tố phát triển thủy sản theo hướng thuận thiên, áp dụng khoa học công nghệ cao, trên cơ sở đó Bộ Nông nghiệp và PTNT tiếp tục nâng cao năng lực nghiên cứu, sản xuất giống cây nông, lâm nghiệp, giống vật nuôi và giống thủy sản theo hướng công nghiệp hiện đại nhằm cung cấp cho sản xuất đủ giống có năng suất, chất lượng, thích ứng với biến đổi khí hậu; góp phần thực hiện thành công định hướng cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Trong đó có 3 ngành hàng chính là lúa gạo, cây ăn trái và thủy sản (cá tra, tôm nước lợ). Đối với 03 đối tượng giống chính của vùng phấn đấu đến năm 2025, xác định được bộ giống tốt nhất cho 3 ngành hàng chủ lực này; đến năm 2030, làm chủ nguồn giống trong nước có chất lượng, năng suất, hiệu quả thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bộ Nông nghiệp và PTNT cũng đã chỉ đạo các đơn vị, địa phương liên quan tổ chức triển khai Kế hoạch hành động Quốc gia phát triển ngành tôm ban hành kèm theo Quyết định số 79/QĐ-TTg ngày 18/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó đẩy mạnh phát triển nuôi tôm càng xanh với năng suất và chất lượng ổn định, hiệu quả và bền vững; nuôi tôm thẻ chân trắng công nghiệp theo hướng công nghệ cao; tôm sú sinh thái, hữu cơ quy mô lớn (tôm - lúa - rừng), tập trung ở các khu vực lợi thế là Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bến Tre và Trà Vinh. Đồng thời, Bộ hỗ trợ Bạc Liêu để đầu tư dự án Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu từ nguồn vốn dự phòng 10% giai đoạn 2016-2020 của Bộ, đến nay dự án đã được Bộ phê duyệt, dự kiến khởi công trong năm 2021.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.