Các nội dung cơ bản của chính sách BHTG cho phép ngân hàng thực hiện trách nhiệm với người gửi tiền - đối tượng tin tưởng trao tài chính của mình cho ngân hàng kinh doanh.
Sau hơn 20 năm đi vào cuộc sống, chính sách bảo hiểm tiền gửi (BHTG) đã và đang thực sự trở thành một công cụ hữu hiệu của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Sự xuất hiện của BHTG phản ánh tính trách nhiệm xã hội của hoạt động ngân hàng, được cụ thể hóa bằng mức độ trách nhiệm trực tiếp đối với người gửi tiền và gián tiếp đối với sự phát triển ổn định và bền vững của hoạt động ngân hàng.
Các nội dung cơ bản của chính sách BHTG cho phép ngân hàng thực hiện trách nhiệm với người gửi tiền - đối tượng tin tưởng trao tài chính của mình cho ngân hàng kinh doanh. Điều kiện tham gia BHTG, loại tiền gửi được bảo hiểm, phí bảo hiểm, hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, quy trình, thủ tục chi trả, hoạt động giám sát, kiểm tra của tổ chức BHTG, phổ cập chính sách BHTG, và tổ chức BHTG tham gia giải quyết khó khăn cho ngân hàng huy động tiền gửi là những nội dung cốt lõi của chính sách BHTG. Mức độ thực hiện các nội dung này phản ánh mức độ đáp ứng tiêu chí đạo đức và trách nhiệm xã hội của hoạt động ngân hàng, xét trên góc độ người gửi tiền.
Tham gia BHTG là điều kiện bắt buộc đối với tất cả các ngân hàng có huy động tiền gửi. Quy định này loại bỏ rủi ro chọn nhầm đối tượng trong tham gia BHTG. Việc được cấp giấy Chứng nhận tham gia BHTG giúp các ngân hàng củng cố hình ảnh, tăng cường niềm tin từ cộng đồng và tăng khả năng huy động tiền gửi. Khoản 3, Điều 12, Luật BHTG quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG như sau: “Nộp phí BHTG đầy đủ và đúng thời hạn”. Như vậy, người gửi tiền không phải nộp phí BHTG nhưng vẫn là đối tượng được bảo vệ.
Hạn mức trả tiền BHTG phản ánh mức độ bồi thường cho người gửi tiền khi ngân hàng không có khả năng hoàn trả tiền gửi tức thì. Hạn mức trả tiền bảo hiểm được xác định dựa trên mức thu nhập bình quân đầu người, mức độ lạm phát và mức độ đáp ứng dao động từ 80 - 90% số người gửi tiền tại ngân hàng và được điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam trong từng thời kỳ. Hơn nữa, hạn mức trả tiền bảo hiểm được xác định trả ngay tức thì cho người gửi tiền với số lượng tiền trong hạn mức. Số tiền gửi vượt hạn mức sẽ được xem xét trả trong giai đoạn thanh lý tài sản của ngân hàng đóng cửa. Cho đến nay, hạn mức trả tiền BHTG đã 02 lần thay đổi, từ 30 triệu đồng năm 1999 lên 50 triệu đồng năm 2005 và hạn mức BHTG hiện hành là 75 triệu đồng/người/một tổ chức tham gia BHTG. Ngày 31.7.2020, Chính phủ đã công bố dự thảo Quyết định của Thủ tướng về hạn mức trả tiền BHTG với định hướng hạn mức BHTG dự kiến nâng lên trong thời gian tới là 125 triệu đồng nhằm bảo vệ tốt hơn nữa cho người gửi tiền.
Đặc biệt, hoạt động giám sát, kiểm tra của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) đối với tổ chức tham gia BHTG được xem là hoạt động nòng cốt, cho phép BHTGVN đóng góp vào giảm thiểu rủi ro phát sinh trong hoạt động ngân hàng. Trên cơ sở các thông tin thu thập được trong quá trình giám sát, kiểm tra, BHTGVN phát hiện những biến động bất thường trong hệ thống và báo cáo Ngân hàng Nhà nước kịp thời chấn chỉnh và xử lý những vi phạm quy định về an toàn tài chính. Tính đến thời điểm hiện tại, BHTGVN đang bảo vệ cho hơn 5,7 triệu tỷ đồng tiền gửi tại 1.282 tổ chức tham gia BHTG.
Bên cạnh đó, mức độ phổ cập nội dung chính sách BHTG quyết định tới tác dụng và hiệu quả triển khai chính sách. Để hạn chế các biểu hiện hoang mang, mất niềm tin, hiệu ứng đám đông bất lợi,… khi có thông tin tiêu cực về hoạt động ngân hàng, công tác thông tin tuyên truyền được BHTGVN tích cực triển khai theo hướng đa dạng về nội dung, hình thức, mở rộng kênh truyền thông đến các vùng sâu, vùng xa, tạo sự an tâm, tin tưởng của người gửi tiền đối với hệ thống các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.
Có thể thấy, thành công của công cụ chính sách BHTG có thể được đánh giá ở nhiều góc độ, trong đó gia tăng niềm tin của người gửi tiền, qua đó để nâng cao thói quen giao dịch của người dân là một mục tiêu lớn. Một khi có sự bảo vệ mạnh, an tâm hơn vào hệ thống ngân hàng, người gửi tiền sẽ điều chỉnh hành vi gửi tiền tiết kiệm của mình, tìm hiểu và tiếp cận vốn qua kênh tín dụng ngân hàng chính thống, tránh bị mắc bẫy, rơi vào vòng xoáy cho vay nặng lãi của tín dụng đen.
Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.
Không chỉ từ khi Luật Hợp tác xã năm 2023 chính thức có hiệu lực (01/7/2024), mà trước đó, nhiều hợp tác xã (HTX) trên địa bàn Quảng Ngãi đã chủ động mở rộng các dịch vụ phục vụ và phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD) gắn với chuỗi giá trị sản phẩm. Nhờ đó, vai trò của HTX nông nghiệp (NN) đối với kinh tế hộ ngày càng rõ hơn, nhất là khi SX gặp khó khăn: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,…