Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ bảy, ngày 27 tháng 4 năm 2024  
Thứ năm, ngày 28 tháng 10 năm 2021 | 22:29

Giải pháp để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị nông sản cho người dân vùng ĐBSCL

Vùng ĐBSCL xác định, lúa gạo, thủy sản và trái cây là những sản phẩm chủ lực. Do vậy, nhiều địa phương kiến nghị Bộ Chính trị chỉ đạo các bộ, ngành Trung ương và địa phương triển khai giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng, nâng cao giá trị sản phẩm.

Đóng góp 33,54% GDP lĩnh vực nông nghiệp cả nước

Đánh giá của Bộ Nông nghiệp và PTNT tại hội nghị trực tuyến với 13 tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL tổng kết Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/1/2003 của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 21) và Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14/8/2012 của Bộ Chính trị (Kết luận 28) diễn ra mới đây cho thấy, giai đoạn 2004-2020, ngành Nông nghiệp ĐBSCL đóng góp trung bình 33,54% GDP lĩnh vực nông nghiệp cả nước; tốc độ tăng trưởng bình quân GDP nông nghiệp đạt 4,6% cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nước (3,76%). Năm 2020, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của vùng chiếm 45,08% cả nước với tốc độ tăng bình quân 4,17%/năm.

ĐBSCL luôn đứng đầu cả nước về sản lượng gạo.

 

ĐBSCL luôn đứng đầu cả nước về sản lượng gạo, tôm nước lợ, cá tra và trái cây, với 24,51 triệu tấn gạo, chiếm 56% tổng sản lượng của cả nước; 671.700 tấn tôm, chiếm 83,51%; 1,41 triệu tấn cá tra, chiếm 98% và 4,3 triệu tấn trái cây, chiếm 60%. Diện tích sản xuất muối của các tỉnh ĐBSCL đến năm 2020 là 3.349ha, sản lượng cơ bản đáp ứng nhu cầu của vùng...

Về xây dựng nông thôm mới (NTM), đến cuối năm 2020, vùng ĐBSCL có 60,8% số xã đạt chuẩn NTM. Có hai địa phương là TP. Cần Thơ và tỉnh Bạc Liêu có 100% xã đạt chuẩn NTM. Toàn vùng ĐBSCL có 796 sản phẩm OCOP được chứng nhận từ 3 sao trở lên. Hạ tầng giao thông, thủy lợi được quan tâm đầu tư nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu; bộ mặt nông thôn các tỉnh, thành vùng ĐBSCL từng bước thay đổi…

Ông Nguyễn Văn Buội, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Bến Tre cho biết, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân của ngành Nông nghiệp (khu vực I), giai đoạn 2003 - 2020 tăng bình quân 3,5%/năm. Cơ cấu kinh tế khu vực I có bước chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng khu vực I trong GRDP giảm từ 64,63% năm 2002 xuống còn 38,6% năm 2020. Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của tỉnh năm 2020 đạt 178,93 triệu USD, tăng 6,9 lần so với năm 2002.

Hai thế mạnh của tỉnh là kinh tế vườn và thủy sản được phát huy hiệu quả; cơ cấu cây trồng, vật nuôi được chuyển đổi theo hướng năng suất, chất lượng, hiệu quả, bước đầu hình thành các vùng sản xuất tập trung đối với lúa, dừa, cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản, đáp ứng nguồn nguyên liệu ngày càng tốt hơn cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Nghị quyết số 21 và Kết luận số 28 của các tỉnh, thành phố trong vùng ĐBSCL vẫn còn những hạn chế, khó khăn. Vùng đang dần mất những lợi thế phát triển, quá trình phát triển đang chậm lại so với nhiều vùng khác; lĩnh vực nông nghiệp vốn có lợi thế nhưng chưa phát huy hết tiềm năng; nhiều chuỗi giá trị quan trọng chưa được hình thành và phát huy tác dụng; hợp tác và liên kết vùng chưa thực sự hiệu quả; giao thông vẫn tiếp tục là điểm nghẽn trong phát triển kinh tế...

Trái cây là một trong 3 sản phẩm chủ lực mang lại giá trị kinh tế cao của vùng.

 

Liên quan đến vấn đề này, ông Lê Tấn Cận, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Bạc Liêu cho biết, khó khăn của tỉnh là cơ sở hạ tầng giao thông và thủy lợi còn hạn chế, cần được quan tâm đầu tư nhiều hơn. Kiến nghị Trung ương sớm có phương án xử lý cấp, điều tiết nước thông qua đầu tư hệ thống thủy lợi có tính liên kết vùng; xây dựng điều phối phát triển vùng ĐBSCL; phát triển liên kết kinh tế vùng Bán đảo Cà Mau theo hướng đột phá, có cơ chế đặc thù; tăng cường nguồn lực từ trung ương để phát triển hạ tầng giao thông.

 

Mong Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới

Bộ Nông nghệp và PTNT xác định, mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL đến năm 2030, cụ thể, tốc độ tăng GDP nông nghiệp đạt trên 3%/năm; tốc độ tăng thu nhập từ chế biến nông, lâm, thủy sản (NLTS) đạt trên 5%/năm; tốc độ tăng năng suất lao động NLTS đạt trên 5%/năm; tỷ lệ giá trị sản phẩm NLTS được sản xuất dưới các hình thức hợp tác và liên kết đạt trên 30%; thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng ít nhất 2 lần so với năm 2018; tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm xuống dưới 30% tổng số lao động; tỷ lệ nông dân được đào tạo nghề nông nghiệp đạt trên 30%...

Tầm nhìn đến năm 2045, tốc độ tăng GDP nông nghiệp duy trì trên 3%/năm; tốc độ tăng thu nhập từ chế biến NLTS đạt trên 7%/năm; tốc độ tăng năng suất lao động NLTS đạt trên 7%/năm; tỷ lệ giá trị sản phẩm NLTS được sản xuất dưới các hình thức hợp tác và liên kết đạt trên 50%; thu nhập bình quân đầu người/năm khu vực nông thôn tăng ít nhất 2,5 lần so với năm 2030; tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm xuống dưới 20% tổng số lao động; tỷ lệ nông dân được đào tạo nghề nông nghiệp đạt trên 50%...

Ông Trần Công Khôi, Phó Vụ trưởng Vụ Nuôi trồng thủy sản cho biết, cơ cấu sản xuất thuỷ sản chuyển biến theo hướng tích cực là tăng tỷ trọng nuôi trồng và giảm tỷ trọng khai thác. Nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, thành một ngành sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao, làm thay đổi cơ cấu kinh tế vùng ĐBSCL, góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo.

Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, muốn phát triển ĐBSCL cả về nông thôn mới, môi trường… thì cần phát triển kinh tế. Với phát triển nông nghiệp, vùng cần tổ chức sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai. Đổi mới chính sách đất đai, cho phép xây dựng cơ chế đặc thù để thúc đẩy chuyển đổi, tích tụ, tập trung đất nông nghiệp. Các chính sách ỗ trợ người dân trong quá trình chuyển đổi đất lúa.

Chính sách tín dụng cần được đẩy mạnh theo chuỗi giá trị cho hộ nông dân, tổ chức kinh tế tập thể, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, nhất là theo ứng dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường; phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ logistics hỗ trợ nông nghiệp.

Cùng với nguồn ưu tiên từ ngân sách Trung ương, vùng cần thúc đẩy đầu tư theo hình thức đối tác công - tư đối với việc xây dựng hạ tầng; đặc biệt là hạ tầng cho phát triển chế biến sản phẩm, vùng chuyên canh chủ lực. Ưu tiên thu hút đầu tư các doanh nghiệp tại các vùng lõi của vùng chuyên canh chủ lực. Thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp, hợp tác xã, cộng đồng đầu tư vào các sản phẩm đặc sản theo mô hình OCOP (Chương trình Mỗi xã một sản phẩm) gắn với phát triển du lịch, đặc biệt tại các vùng linh hoạt.

Nuôi tôm nước lợ cũng là một thế mạnh của ĐBSCL.

 

Ông Lê Tấn Cận, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Bạc Liêu cho biết, tỉnh xác định nông nghiệp là trụ đỡ với hai sản phẩm chủ lực là tôm và lúa. Con tôm được xác định là kinh tế mũi nhọn để xây dựng Bạc Liêu thành trung tâm công nghiệp ngành tôm. Diện tích nuôi tôm công nghệ cao liên tục tăng; các doanh nghiệp từng bước thực hiện liên kết sản xuất. Về sản xuất lúa, tỉnh hướng đến xây dựng các cánh đồng lớn, hình thành liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm. Diêm nghiệp hướng đến sản xuất muối chất lượng cao, muối trải bạt. Bạc Liêu quan tâm ứng dụng công nghệ cao, chú trọng liên kết sản xuất, nhất là hợp tác xã.

Phần lớn lãnh đạo các tỉnh, thành phố dự hội nghị đều xác định lúa gạo, thủy sản và trái cây là sản phẩm chủ lực của vùng ĐBSCL. Do vậy, kiến nghị Bộ Chính trị chỉ đạo các bộ, ngành Trung ương và các địa phương triển khai nhiều giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị lúa gạo, thủy sản và trái cây để người dân nâng cao thu nhập từ các mặt hàng chủ lực này. Đồng thời mong muốn Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới thay thế Nghị quyết số 21 và Kết luận số 28.

Ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT cho biết, Bộ sẽ tham mưu Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành Trung ương và các địa phương xây dựng nâng cấp hệ thống thủy lợi của vùng nhằm bảo đảm sản xuất của nhân dân. Đẩy mạnh tái cơ cấu, chuyển đổi sản xuất nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số và cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp.

Quan tâm trồng rừng ngập mặn, nhất là rừng phòng hộ ven biển để chống sạt lở bờ biển, thích ứng với biến đổi khí hậu và chống ngập mặn. Thực hiện tốt việc liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị để hình thành các vùng sản xuất lớn; xây dựng hạ tầng logistics cho hợp tác xã nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển; quan tâm phát triển các ngành nghề dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp…

 

 

 

Hoàng Văn (tổng hợp)
Ý kiến bạn đọc
  • Tạo mọi điều kiện cho các hộ nghèo, cận nghèo tiêp cận nguồn vốn ở TP. Lào Cai

    Tạo mọi điều kiện cho các hộ nghèo, cận nghèo tiêp cận nguồn vốn ở TP. Lào Cai

    Hôm nay (25/4), Ban đại diện Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội (BĐD HĐQT NHCSXH) TP. Lào Cai tổ chức hội nghị đánh giá kết quả hoạt động quý I và triển khai nhiệm vụ trọng tâm quý II/2024.

  • Tín dụng chính sách trợ lực giảm nghèo bền vững

    Tín dụng chính sách trợ lực giảm nghèo bền vững

    Nhằm giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo vươn lên cải thiện cuộc sống, các sở, ban, ngành và các cấp chính quyền huyện, thị, thành phố của tỉnh Hậu Giang đã và đang triển khai thực hiện các dự án đa dạng hóa sinh kế, nhân rộng mô hình giảm nghèo bền vững. Thông qua vốn tín dụng chính sách của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đầu tư vào sản xuất - kinh doanh, đời sống người dân đã được nâng cao, từng bước thoát nghèo, vươn lên khá - giàu.

  • “Quả ngọt” từ dòng vốn chính sách

    “Quả ngọt” từ dòng vốn chính sách

    Thời gian qua, từ các chương trình tín dụng ưu đãi, hàng nghìn hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Phú Thọ được tiếp cận vốn để phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo.

  • Nỗ lực Dần Thàng

    Nỗ lực Dần Thàng

    Chỉ vài ba năm trở về trước, xã Dần Thàng (Văn Bàn, Lào Cai) còn là một địa danh ẩn sâu trong những tán rừng, được bao bọc bởi nhiều dãy núi, nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc Dao. Quyết tâm XD NTM đã khiến Dần Thàng “chuyển động”, mạnh mẽ nhất là phong trào phát triển kinh tế.

  • Quảng Trị đưa xây dựng NTM vào chiều sâu và bền vững

    Quảng Trị đưa xây dựng NTM vào chiều sâu và bền vững

    Thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới (NTM) gắn với thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn đi vào chiều sâu, bền vững, từng bước hiện đại đang được Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân Quảng Trị triển khai có hiệu quả.

  • Khắc phục hạn chế để đưa sản phẩm OCOP vươn tầm thế giới

    Khắc phục hạn chế để đưa sản phẩm OCOP vươn tầm thế giới

    Để "đặt chân" sâu hơn vào thị trường quốc tế đòi hỏi sản phẩm OCOP cần phải khắc phục hạn chế và sản xuất cái thị trường cần thay vì cái mình có, định vị thị trường và mở kênh bán hàng…

Top