Kinh tế nông thôn
Kinh tế nông thôn
Thứ bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024  
Thứ ba, ngày 13 tháng 4 năm 2021 | 14:22

Tin ĐBSH: Sản xuất theo chuỗi, đưa nông sản vào kênh phân phối hiện đại

Để đẩy mạnh việc tiêu thụ nông sản an toàn qua các kênh phân phối hiện đại, nông dân phải sản xuất theo hướng an toàn, bảo đảm chất lượng, số lượng, độ đồng đều, có truy xuất nguồn gốc xuất xứ và xây dựng thương hiệu.

 

4.jpg
Việc đưa các mặt hàng nông sản sạch của Việt Nam vào kênh phân phối hiện đại như siêu thị, cửa hàng tiện ích giúp tăng thu nhập cho người dân, góp phần quảng bá thương hiệu cho đặc sản trong nước. (Ảnh: Nhật Nam)

Hà Nội: Sản xuất theo chuỗi, đưa nông sản vào kênh phân phối hiện đại

Việc đưa các mặt hàng nông sản sạch của Việt Nam vào kênh phân phối hiện đại như siêu thị, cửa hàng tiện ích không chỉ giúp tăng thu nhập cho người dân mà còn góp phần quảng bá thương hiệu cho đặc sản trong nước. Song vì nhiều lý do, số lượng nông sản an toàn có tem nhãn mác truy xuất nguồn gốc vào được kênh phân phối này còn rất ít. Hiện các nhà sản xuất, doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước vẫn đang trăn trở tìm lối đi bền vững cho nông sản sạch.

Giám đốc Hợp tác xã Kinh doanh dịch vụ nông nghiệp Văn Đức (huyện Gia Lâm) Nguyễn Văn Minh cho biết, xã Văn Đức có 220ha rau an toàn, trong đó có 26,9ha rau sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Trung bình mỗi ngày hợp tác xã cung cấp ra thị trường 40-50 tấn rau các loại, nhưng chỉ có khoảng 10-15% tiêu thụ qua siêu thị, cửa hàng tiện ích, còn lại chủ yếu vẫn bán cho các bếp ăn tập thể và các tiểu thương kinh doanh ở chợ dân sinh.

Còn Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất và kinh doanh sản phẩm nông nghiệp Phúc Thọ (huyện Phúc Thọ) Nguyễn Hưng Thỉnh thông tin, hiện nay đơn vị có hơn 200 con lợn nuôi theo hướng an toàn. Thế nhưng đến nay, sản phẩm thịt lợn của hợp tác xã vẫn chủ yếu bán cho các bếp ăn tập thể trên địa bàn và khách quen, chưa đưa được vào kênh phân phối hiện đại.

Về nguyên nhân dẫn tới tình trạng nêu trên, bà Nguyễn Thị Thu, chủ cửa hàng nông sản hữu cơ Hai Sương, ở phường Văn Quán (quận Hà Đông) chia sẻ: "Số lượng sản phẩm bán ra không nhiều nên cửa hàng phải chọn lọc kỹ lưỡng. Hiện nay nhiều nhà sản xuất chưa xây dựng được thương hiệu, chưa có tem nhãn truy xuất nguồn gốc nên chúng tôi không thể ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm”.

Theo Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Tạ Văn Tường, hiện nay khoảng 85% các loại nông sản, thực phẩm sạch đang tiêu thụ qua các kênh bán lẻ truyền thống (chợ dân sinh, thương lái...), 15% tiêu thụ tại các kênh phân phối hiện đại (siêu thị, cửa hàng tiện ích). Việc đưa nông sản an toàn vào kênh phân phối hiện đại gặp nhiều khó khăn do sản xuất nông nghiệp vẫn manh mún, nhỏ lẻ, trong khi đó quy định đầu tiên của siêu thị, cửa hàng tiện ích là phải kiểm soát nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa, có hồ sơ, chứng từ cũng như các thủ tục pháp lý để giao dịch, mua bán. Nhiều nhà sản xuất mới chỉ quan tâm tới số lượng, chưa chú ý chất lượng sản phẩm; chưa có bao bì, nhãn mác cũng như thiếu các chứng nhận về an toàn thực phẩm…

Để đẩy mạnh việc tiêu thụ nông sản an toàn qua các kênh phân phối hiện đại, Phó Giám đốc Công ty cổ phần Suất ăn công nghiệp Hà Nội Trần Xuân Hòa cho rằng, hợp tác xã, người nông dân phải sản xuất theo hướng an toàn, bảo đảm chất lượng, số lượng, độ đồng đều. Trong quản lý, cần ghi chép sổ sách nhật ký chăm sóc để có hồ sơ truy xuất nguồn gốc xuất xứ và xây dựng thương hiệu. Còn theo Phó Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ tổng hợp nông nghiệp Đặng Xá (huyện Gia Lâm) Nguyễn Văn Mạnh, các cơ quan chức năng cần hỗ trợ người dân, hợp tác xã trong việc liên kết với doanh nghiệp, siêu thị để ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm.

Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Tạ Văn Tường nhận định, để tìm được tiếng nói chung với các nhà phân phối trong tiêu thụ nông sản, người nông dân cần xây dựng kế hoạch sản xuất theo quy trình an toàn, có sự kiểm soát lẫn nhau, tạo ra sản phẩm đồng đều về chất lượng, đáp ứng quy mô, đơn hàng lớn. Bên cạnh đó, các hợp tác xã cần tính tới việc quảng bá, bán hàng trên mạng xã hội để bắt kịp với xu thế xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ nông sản thời hiện đại. Thời gian tới, ngành Nông nghiệp tiếp tục hỗ trợ các hợp tác xã trong việc xúc tiến thương mại qua các hội chợ, hội thảo để doanh nghiệp và người sản xuất tìm hiểu thông tin và ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm.

Để tìm lối ra bền vững cho nông sản sạch, các địa phương cần chủ động thay đổi phương thức canh tác, hướng đến sản xuất quy mô lớn theo hình thức liên kết chuỗi... Công tác kết nối cung - cầu cần chặt chẽ hơn và các ngành chức năng cần đẩy mạnh hỗ trợ người sản xuất trong việc hoàn thiện hồ sơ pháp lý để chứng minh nguồn gốc sản phẩm, từ đó tạo thuận lợi trong việc kết nối với siêu thị, cửa hàng tiện ích. 

Thanh Hóa: Đẩy mạnh liên kết sản xuất nông nghiệp

Xác định việc liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm giữa doanh nghiệp (DN) và người dân là giải pháp để phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững; huyện Thiệu Hóa đã tập trung huy động các nguồn lực hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp, như: Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất... Bên cạnh đó, huyện tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.

 

176d6073955t92700l0.jpg
Diện tích sản xuất ớt mang lại hiệu quả kinh tế cao ở xã Thiệu Thành.

 

Theo đó, huyện đã tích cực vận động, hướng dẫn người dân ở các địa phương thực hiện tích tụ, tập trung đất đai; bước đầu đã hình thành được các vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn; thực hiện liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm với các DN, đó là: Vùng lúa năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vùng sản xuất rau an toàn tập trung, vùng sản xuất ớt xuất khẩu, vùng sản xuất khoai tây, vùng sản xuất ngô ngọt và ngô thương phẩm. Hiện huyện đã thu hút 40 DN tham gia vào chuỗi sản xuất nông nghiệp; trong đó, có 20 DN liên kết chặt chẽ, thường xuyên với các hộ dân trên địa bàn, chủ yếu là đầu tư vật tư đầu vào và bao tiêu sản phẩm.

Điển hình, như: Công ty TNHH Thực phẩm công nghệ cao Tâm Phú Hưng, Công ty Giống cây trồng Trường Thành, Công ty Xuất nhập khẩu ớt Phú Sỹ, Công ty TNHH Giống cây trồng Việt Thành, Công ty TNHH MTV Bò sữa Thanh Hóa, Công ty CP Mía đường Lam Sơn... Đến nay, tổng diện tích cây trồng liên kết bao tiêu sản phẩm trên địa bàn huyện hằng năm gần 2.000 ha, như: lúa, ngô, ớt, khoai tây, rau màu các loại... Thành công hơn là huyện đã xây dựng được các mô hình sản xuất theo chuỗi, cung ứng thực phẩm an toàn, như: 5 chuỗi liên kết và bao tiêu sản phẩm lúa gạo với sản lượng 15.300 tấn; 7 chuỗi liên kết và bao tiêu sản phẩm rau, quả với sản lượng 2.800 tấn...

Trong chăn nuôi, một số trang trại chăn nuôi đã thực hiện liên kết với các đơn vị cung ứng vật tư đầu vào và bao tiêu sản phẩm, như: Chuỗi liên kết chăn nuôi lợn tại Trang trại Phú Gia với quy mô 3.000 con lợn/năm; chuỗi liên kết chăn nuôi gia cầm sử dụng thức ăn của Công ty CP Chăn nuôi CP Việt Nam; sản phẩm trứng được liên kết tiêu thụ sản phẩm với Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Hiền Nhuần; chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ thỏ thịt với Công ty TNHH Hoàng Lan...

Đánh giá kết quả thực hiện liên kết sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thiệu Hóa, đại diện lãnh đạo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND huyện cho biết: Từ liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm giữa người dân, HTX với DN đã tạo ra bước đột phá quan trọng, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn. Việc liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản đang được các địa phương quan tâm thực hiện giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm; khắc phục được tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, thuận lợi đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, tạo vùng nguyên liệu và ổn định đầu ra cho sản phẩm.

Thời gian tới, để đẩy mạnh việc liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm giữa bà con nông dân, HTX với DN, huyện sẽ chú trọng tích tụ, tập trung đất đai, đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ canh tác cho lao động nông nghiệp; hỗ trợ về giống, vật tư, chuyển giao, ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và chế biến.

Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, quỹ đất nhằm thu hút DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và mở rộng quy mô đầu tư sản xuất. Tại các xã, cần tiếp tục thực hiện kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sản phẩm phù hợp với lợi thế, chăn nuôi an toàn sinh học... hướng tới phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn. Tiếp tục mở rộng các chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản; phối hợp tổ chức các hội chợ, triển lãm, chương trình xúc tiến đầu tư quảng bá sản phẩm; tăng cường kiểm tra, giám sát, chứng nhận chất lượng nông sản...

Vĩnh Phúc: Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm truyền thống

Giai đoạn 2014 – 2020, Trung tâm Phát triển công thương tỉnh đã hỗ trợ nghiệm thu 3 đề án mô hình trình diễn kỹ thuật, 3 đề án sản xuất sạch hơn, 199 đề án hỗ trợ mua máy móc thiết bị cho các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống. Nguồn hỗ trợ của trung tâm đã thúc đẩy các đơn vị tích cực đầu tư, ứng dụng KHKT trong sản xuất, xây dựng thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm truyền thống trên thị trường.

Đến thăm cơ sở sản xuất giường gỗ của gia đình anh Phạm Văn Tính, thị trấn Yên Lạc (Yên Lạc). Được biết, năm 2020, đơn vị được Trung tâm Phát triển công thương tỉnh hỗ trợ 98 triệu đồng đầu tư máy chà nhám thùng theo công nghệ mới- Loại máy được dùng để đánh bóng, chà láng bề mặt gỗ, có khả năng gia công đạt độ chính xác cao trên gỗ MDF, MFC và các loại ván gỗ ép.

 

1_4.jpg
Nhờ được hỗ trợ đầu tư máy đục CNC theo công nghệ mới, năng suất cơ sở sản xuất mộc gia dụng của anh Dương Văn Hậu ở thị trấn Thanh Lãng (Bình Xuyên) tăng 40%, đạt doanh thu 130 triệu đồng/tháng. (Ảnh: Chu Kiều)

 

Cũng là một trong những đơn vị được hỗ trợ đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại vào sản xuất, năm 2020, cơ sở sản xuất mộc gia dụng của anh Dương Văn Hậu, ở thị trấn Thanh Lãng (Bình Xuyên) được Trung tâm Phát triển công thương tỉnh hỗ trợ 78 triệu đồng đầu tư máy đục CNC- Máy có ưu điểm gia công được các chi tiết nhỏ trên sản phẩm, chế độ cắt gọt với độ chính xác cao.

Máy đục có thể thực hiện một lúc 10 chi tiết với nhiều chuyển động phức tạp, tự động điều chỉnh sai sót, kiểm tra kích thước chi tiết và hiệu chỉnh sai lệch vị trí.

Sau khi đầu tư thiết bị mới, cơ sở không phải thuê các đơn vị khác gia công sản phẩm, tiết kiệm được chi phí, thời gian, chủ động được công việc.

Năng suất lao động cũng tăng 40%, chất lượng sản phẩm được nâng lên; sản phẩm có tính thẩm mỹ và độ đồng đều cao, được thị trường đón nhận.

Doanh thu của xưởng nhờ đó đạt 130 triệu đồng/tháng, tạo việc làm thường xuyên cho 3 lao động với thu nhập trung bình 7 triệu đồng/người/tháng.

Theo ông Ngô Tuấn Nghĩa, Trưởng phòng Khuyến công, Trung tâm Phát triển công thương (Sở Công thương): Để phục vụ phát triển công nghiệp, TTCN, giai đoạn 2014 -2020, trung tâm đã hỗ trợ nghiệm thu 3 đề án mô hình trình diễn kỹ thuật, 3 đề án sản xuất sạch hơn; 199 đề án hỗ trợ mua máy móc, thiết bị cho các cơ sở sản xuất với tổng kinh phí gần 17 tỷ đồng.

Nguồn hỗ trợ của trung tâm đã thúc đẩy các cơ sở, doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, ứng dụng KHKT vào sản xuất với giá trị đạt trên 243 tỷ đồng.

Theo thống kê, kinh phí khuyến công của tỉnh những năm gần đây tăng dần theo các năm. Qua nghiệm thu cho thấy, 100% đề án, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất được hỗ trợ đều hoạt động ổn định, giúp tăng năng suất, thu nhập, nâng cao chất lượng sản phẩm cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất sản phẩm truyền thống tại khu vực nông thôn.

Để phát huy hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ ứng dụng KHKT trong sản xuất các sản phẩm truyền thống, thời gian tới, Trung tâm Phát triển công thương tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp, TTCN ở địa bàn nông thôn trong việc tư vấn đầu tư máy móc, thiết bị, ứng dụng KHKT vào sản xuất.

Từng bước nâng cao chất lượng thẩm định đối tượng đủ điều kiện hỗ trợ khuyến công theo hướng nhanh gọn, hiệu quả, đảm bảo nguồn vốn hỗ trợ đúng người, đi đúng hướng và đạt hiệu quả tối ưu.

Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền cũng góp phần quan trọng, giúp các đơn vị đủ điều kiện thụ hưởng các chính sách khuyến công kịp thời nắm bắt, tiếp cận nguồn vốn ưu đãi...

Từ đó từng bước khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ tại các làng nghề, góp phần tăng sức cạnh tranh cho các sản phẩm truyền thống tại thị trường trong nước và quốc tế./.

Thanh Tâm (T/h)
Ý kiến bạn đọc
  • Thắp sáng niềm tin cho những cảnh đời lầm lỡ

    Thắp sáng niềm tin cho những cảnh đời lầm lỡ

    Sau lầm lỡ, nhiều người mãn hạn tù trở về cuộc sống thường nhật trong nỗi ngổn ngang về tương lai. Ở vùng cao Bắc Hà (Lào Cai), nhờ nguồn vốn tín dụng chính sách từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), không ít người sau lầm lỡ có điểm tựa để làm lại từ đầu, từng bước xây dựng kinh tế gia đình và tái hòa nhập cộng đồng.

  • Tăng cường trao đổi hợp tác trong lĩnh vực phát triển tín dụng chính sách giữa Việt Nam và Cuba

    Tăng cường trao đổi hợp tác trong lĩnh vực phát triển tín dụng chính sách giữa Việt Nam và Cuba

    Hai bên thống nhất sẽ cùng nghiên cứu, tăng cường trao đổi hợp tác trong lĩnh vực phát triển tín dụng chính sách, góp phần vào sự phát triển của quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa ngành ngân hàng nói riêng và hợp tác truyền thống giữa Việt Nam và Cuba nói chung.

  • Hiệu quả từ chương trình giáo dục số cho các nhóm yếu thế

    Hiệu quả từ chương trình giáo dục số cho các nhóm yếu thế

    Chương trình giáo dục số đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cán bộ cơ sở và khách hàng của NHCSXH. Hầu hết đều đánh giá chương trình thiết thực, dễ tiếp cận và phù hợp với nhu cầu của đại đa số khách hàng, góp phần tích cực cho việc thực hiện chủ chương thúc đẩy chuyển đổi số và kinh tế số của địa phương.

  • Năm 2023 – 2024, Hải Phòng huy động 45.000 tỷ xây dựng NTM kiểu mẫu

    Năm 2023 – 2024, Hải Phòng huy động 45.000 tỷ xây dựng NTM kiểu mẫu

    Ngày 22/11, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam TP. Hải Phòng giám sát chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) kiểu mẫu tại Văn phòng Điều phối nông thôn mới.

  • HTX nông nghiệp ở Quảng Ngãi “Ăn nên làm ra”

    HTX nông nghiệp ở Quảng Ngãi “Ăn nên làm ra”

    Không chỉ từ khi Luật Hợp tác xã năm 2023 chính thức có hiệu lực (01/7/2024), mà trước đó, nhiều hợp tác xã (HTX) trên địa bàn Quảng Ngãi đã chủ động mở rộng các dịch vụ phục vụ và phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD) gắn với chuỗi giá trị sản phẩm. Nhờ đó, vai trò của HTX nông nghiệp (NN) đối với kinh tế hộ ngày càng rõ hơn, nhất là khi SX gặp khó khăn: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,…

  • HTX An Hòa: Tập trung ruộng đất, phát triển nông nghiệp quy mô lớn

    HTX An Hòa: Tập trung ruộng đất, phát triển nông nghiệp quy mô lớn

    Để phát huy hiệu quả giá trị tài nguyên đất, chị Hoàng Thị Gái, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX An Hòa đã mạnh dạn tập trung ruộng đất, áp dụng cơ giới hóa, từ đó nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp.

Top